✅ Văn mẫu Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) (dàn ý + 70 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐

5/5 - (1 vote)

Dàn ý Phân tích tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành (3 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐

Phân tích tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành (dàn ý + 10 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐

Dàn ý Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu (3 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐

Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu Bài văn Phân tích hình tượng nhân vật Tnú hay nhất (dàn ý + 10 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐

Dàn ý Phân tích nhân vật cụ Mết trong truyện ngắn Rừng xà nu (3 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐

Phân tích nhân vật cụ Mết trong truyện ngắn Rừng xà nu (dàn ý + 7 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐

Dàn ý Phân tích hình tượng cây xà nu trong Rừng xà nu (3 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐

2 bài văn mẫu Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu(dàn ý + 9 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐

Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong tác phẩm Rừng xà nu (dàn ý + 7 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐

Dàn ý Phân tích Rừng xà nu

1. Mở bài

– Giới thiệu chung về tác giả Nguyễn Trung Thành (những nét chính về con người, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác,…)

– Giới thiệu chung về truyện ngắn Rừng xà nu (xuất xứ, hoàn cảnh ra đời, những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật,…)

2. THÂN BÀI

a. Hình tượng rừng xà nu, cây xà nu

– Rừng xà nu, cây xà nu là một hình ảnh thực, chân thật.

     + Rừng xà nu được miêu tả một cách cụ thể, gắn với một địa chỉ, một không gian xác thực

     + Rừng xà nu, cây xà nu gắn bó mật thiết với đời sống sinh hoạt, cuộc sống của dân làng Xô Man.

     + Người Xô Man còn lớn lên dưới bóng cây xà nu, hẹn hò nhau dưới gốc cây xà nu và để rồi, đến lúc chết đi họ cũng yên nghỉ dưới gốc cây xà nu.

– Rừng xà nu, cây xà nu là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho số phận và phẩm chất của con người Xô Man.

     + Cây xà nu là hình ảnh tượng trưng cho số phận đau thương của con người Xô Man.

     + Cây xà nu là loai cây ham ánh sáng mặt trời, luôn hướng mình về phía ánh sáng, cũng giống như những người dân Xô Man luôn hướng tới Đảng, tới cách mạng.

     + Cây xà nu còn là loại cây sinh sôi nảy nở rất khỏe, nó cũng giống như sức sống bất diệt của người dân Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm lược

b. Các thế hệ anh hùng của làng Xô Man, của mảnh đất Tây Nguyên

– Cụ Mết: biểu tượng của thế hệ anh hùng đi trước, hội tù đầy đủ vẻ đẹp của con người mảnh đất Tây Nguyên.

     + “râu dài đến ngực mà vẫn đen bóng”, “vết sẹo ở má phải”, “đôi bàn tay nặng trịch như kìm sắt”, “ngực căng như một cây xà nu lớn”, “ồ ồ dội vang trong lồng ngực,… Đồng thời,

     + Là người gan dạ, dũng cảm, quả quyết, thương yêu và hết mực che chở cho người dân làng Xô Man

– Tnú:

     + Tnú là người chiến sĩ thông minh, gan góc và dũng cảm

     + Tnú là người chồng, người cha với tấm lòng yêu thương vợ con sâu sắc

     + Tnú là một người con đầy nghĩa tình của buôn làng Xô Man

– Dít: một cô gái dũng cảm, biết nén đau thương để chờ ngày trả thù giặc.

– Bé Heng: dù còn nhỏ tuổi nhưng rất thông minh và tham gia chống giặc

3. KẾT BÀI

Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của Rừng xà nu và nêu cảm nghĩ của bản thân về tác phẩm.

Phân tích Rừng xà nu

    Nguyễn Trung Thành là nhà văn sinh ra ở vùng đất Thăng Bình, Quảng Nam, tên khai sinh của ông là Nguyên Ngọc. Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước lầm than khi phải trải qua hai cuộc kháng chiến lớn của dân tộc, hơn ai hết, ông trân quý và khâm phục những con người hy sinh hết mình cho cách mạng, cho Tổ quốc thân yêu.

    Đặc biệt đối với vùng đất Tây Nguyên anh dũng cùng những con người bộc trực, dũng cảm, kiên trung một lòng gắn bó cách mạng được ông ưu ái và dành nhiều niềm thương yêu. Bởi vậy mà bao nhiêu cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên anh hùng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận để ông viết nên tác phẩm Rừng xà nu đầy thành công, trở thành một kiệt tác gắn bó với tên tuổi của mình.
Rừng xà nu được viết vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt. Tác phẩm được in trên tạp chí Văn nghệ giải phóng, trích trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Đây là bài ca ca ngợi bản lĩnh, ý chí sắt đá, bất khuất kiên cường của đồng bào Tây Nguyên.
Rừng xà nu quanh làng Xô man được tác giả giới thiệu trong đoạn đầu tác phẩm đầy độc đáo. Một rừng cây luôn “nằm trong tầm đại bác của đồn giặc”, bị súng đạn bắn phá liên tục, sự hủy diệt vô cùng tàn bạo của quân giặc trước sức sống của thiên nhiên – ” Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Một cảnh tượng đầy đau thương hiện ra trước mắt, bao nhiêu cây xà nu không cây nào là không bị trúng đạn, cây nào cũng bị vết thương loang lổ, loét mãi ra rồi chết.

    Đạn đại bác hung tàn, không nhân nhượng trước vẻ đẹp kiêu hùng thiên nhiên, cây vừa lớn đã bị chặt làm đôi rồi đổ ào. Song, rừng xà nu ấy vẫn không chịu khuất phục, những cây cường tráng nhanh chóng tự chữa lành vết thương. Chúng vẫn tiếp tục sức sống mạnh mẽ của mình để dang rộng vòng tay mà che chở cho ngôi làng thân yêu. Cây nọ tiếp cây kia vẫn sinh sôi nảy nở, sự sống vẫn đâm chồi trước sự tàn phá của quân thù “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên”.

    Cây xà nu tự mình đứng lên, trường tồn và phát triển, dũng cảm hiên ngang trước bom đạn kẻ thù “hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Hình ảnh rừng xà nu hiện lên thật đẹp, thật đáng tự hào biết bao. Cây xà nu chính là biểu trưng cho vùng đất Tây Nguyên, là đại diện tiêu biểu cho con người Tây Nguyên, là hình ảnh ẩn dụ cho cốt cách, sức sống của đồng bào Tây Nguyên từ trước đến nay. Trong đau thương vẫn ánh dũng kiên cường, trong áp bức vẫn tràn trề hy vọng, vẫn mang ý chí đấu tranh, nguyện theo gương cách mạng, là sự sống bất diệt của buôn làng Xô man.
Sau hình ảnh xà nu, tác giả tiếp tục tái hiện chân thực cuộc sống và chiến đấu của người dân nơi đây. Họ là những thế hệ giàu lòng yêu nước, có niềm tin lớn lao vào cách mạng, là những gương anh hùng sáng chói với non sông, Tổ quốc. Đó là một Cụ Mết đại diện cho những thế hệ anh hùng đi trước đầy kinh nghiệm, bản lĩnh và giàu lòng yêu nước, luôn hướng cho dân làng những bước đi đúng đắn trong chiến đấu. Là một người nhìn xa, thấu hiểu dân làng, là một chỗ dựa tinh thần không thể thiếu của làng Xôman.

    Với cụ “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Chân lý “Chúng nó dùng súng, mình phải cầm giáo” của cụ như một lời tuyên ngôn trong cuộc chiến của dân tộc. Đó còn là một Tnú với những phẩm chất anh hùng. Khi còn nhỏ, anh sớm đã giác ngộ cách mạng, phấn đấu để trở thành những người như anh Quyết lãnh đạo cách mạng. Một cậu bé gan góc và đầy dũng cảm, giữa bao chiến trận đầy súng đạn của giặc, cậu bé giao liên vẫn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Khi bị bắt, Tnú vẫn một lòng trung thành dù bị tra tấn đầy ác độc, nhưng vẫn nhất quyết giữ bí mật. Sau khi vượt ngục, những tưởng được hạnh phúc bên vợ con thì giặc tiến vào diệt phong trào nổi dậy, một lần nữa Tnú phải chịu đau thương trước sự tra tấn và khổ đau khi vợ con bị giết mà không làm gì được. Càng trong đau thương, phẩm chất anh hùng càng ngời sáng trong Tnú, càng trong áp bức càng kiên cường đứng lên trả mối thù lớn cho vợ con, cho chính mình và cho dân làng Xô man yêu dấu.

    Tiếng thét căm hờn là tiếng căm phẫn, xé lòng giữa cuộc chiến, là tiếng hiệu triệu người người đứng lên giết chết quân thù, bè lũ cướp nước. Bàn tay bị đốt mười ngón nhưng không thiêu rụi được ý chí của người con Tây Nguyên. Cuối cùng, Tnú cũng đã giết chết được thằng Dục, kẻ đã thẳng tay giết người thân của anh, trả mối thù sâu nặng bấy lâu. Tnú tiêu biểu cho thế hệ thanh niên trưởng thành trong cách mạng, tin yêu và đem hết sức mình phục vụ quân giải phóng.

    Đó còn là những Dít, bé Heng,… thế hệ tiếp nối bao chiến công cha anh để cùng nhau chung sức đưa thắng lợi đi đến cuối cùng. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, ngày càng trưởng thành, kiên cường chiến đấu xứng đáng với hi sinh của cha anh. Dường như, trong cuộc chiến khốc liệt, con người Tây Nguyên càng khẳng định được chính mình. Trong lầm than, đen tối, họ lại càng kiên dũng, ngời sáng tuyệt vời.

    Rừng xà nu và nhân dân làng Xô man như hai mà một, đều chịu nhiều đau thương, đều vươn mình mạnh mẽ. Đó là sức sống bất diệt, là tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.
Bằng sự kết hợp tài tình giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, Nguyễn Trung Thành không chỉ ngợi ca vẻ đẹp trong nhân cách của người con Tây Nguyên mà qua đó còn đặt ra một vấn đề mang tính thời đại: Để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ tự do cho đất nước trước nhất phải cầm vũ khí đứng lên.

Dàn ý Phân tích hình tượng nhân vật Tnú

I. Mở bài:

– Sơ lược về tác giả và tác phẩm, giới thiệu nhân vật anh hùng Tnú.

II. Thân bài:

* Lai lịch, xuất thân và số phận đau thương:

– Mồ côi, được sống và lớn lên trong vòng tay bảo bọc, nâng đỡ của dân làng Xô Man, một ngôi làng có truyền thống đánh giặc.

– Tnú được thừa hưởng từ cái nôi truyền thống nhiều phẩm chất tốt đẹp và trở thành một con người mang vẻ đẹp kết tinh của cộng đồng, mà theo lời cụ Mết nói: “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.

– Phải tận mắt chứng kiến cái chết thương tâm của người vợ trẻ và đứa con chưa đầy tháng dưới tay giặc.

– Bị giặc bắt, tra tấn, dùng nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay của anh, khiến anh mất đi đôi bàn tay khỏe mạnh, đủ đầy.

=> Thử thách để giúp Tnú trưởng thành trong sự nghiệp cách mạng, cũng như củng cố và làm sáng rõ hơn lý tưởng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

* Vẻ đẹp của tinh thần dũng cảm, lòng gan dạ, sự nhanh nhẹn, nhạy bén, không sợ hy sinh và tinh thần giác ngộ cách mạng sớm:

– Khi còn bé đã xung phong làm nhiệm vụ nuôi giấu cán bộ, khi được anh Quyết hỏi có sợ bị bắn không, Tnú rất khảng khái nhắc lại đúng lời cụ Mết rằng: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn núi nước này còn!”, thể hiện tấm lòng kiên trung, sớm giác ngộ cách mạng từ những ngày còn thơ bé của Tnú.

– Quyết tâm học chữ cho thật giỏi để làm cách mạng, có lần vì không nhớ nổi chữ mà Tnú đập vỡ bảng, thậm chí lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.

– Gan dạ và mưu trí khi đi liên lạc“Không bao giờ đi đường mòn…leo lên cây cao nhìn quanh một lượt rồi mới xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây”, rồi qua sông không chọn chỗ nước êm mà cứ chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang để tránh khỏi tầm mắt của lũ giặc.

– Khi bị giặc bắt, Tnú nhanh trí nuốt luôn cả thư, khi bị bắt giam Tnú cũng tìm cách vượt ngục để trở về buôn làng.

* Vẻ đẹp từ tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, sự căm thù giặc sâu sắc và ý thức tổ chức kỷ luật cao

– Ngày bé khi đi đưa thư, chúng tra tấn Tnú dã man nhưng anh hề hé răng lấy nửa chữ, sau 3 năm anh vượt ngục rồi trở về lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí đánh giặc.

– Khi trưởng thành, Tnú lần nữa bị giặc bắt, châm lửa đốt mười đầu ngón tay, nhưng Tnú vẫn không hề hé răng kêu lấy một tiếng, “người cộng sản không thèm kêu van” .

– Sự khiếm khuyết của đôi bàn tay chính là động lực, là lời nhắc nhở, là ký ức đau thương về những gì kẻ thù đã để lại trong cuộc đời anh. Cũng chính đôi bàn tay ấy trở nên mạnh mẽ, kiên cường dẫu rằng thiếu đi một đốt, nhưng bàn tay ấy vẫn cầm được súng, vẫn bóp được cò, thậm chí Tnú còn chính tay bóp chết được một thằng giặc khỏe mạnh.

* Vẻ đẹp từ tình cảm gắn bó sâu sắc với quê hương, với gia đình:

– Tấm lòng yêu thương mẹ con Mai, cũng như nỗi đau đớn tột cùng khi không thể cứu kịp vợ con, quyết hy sinh thân mình để cứu mẹ con Mai.

– Khi Mai mới sinh con, Tnú đã xé đồ của mình làm đôi để cho làm tấm địu con, đó là tấm lòng hy sinh, lòng yêu thương của một người cha đối với đứa con bé bỏng.

– Có tình cảm sâu sắc với quê hương, anh yêu dân làng, yêu làng, nhớ từng kỷ niệm gắn bó với làng Xô Man, anh đi chiến đấu không chỉ vì mối thù của bản thân mà còn là để bảo vệ làng, bảo vệ mảnh đất quê hương.

III. Kết bài:

– Nêu cảm nhận.

Phân tích hình tượng nhân vật Tnú

    Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng, với Nguyễn Trung Thành đó là Tây Nguyên. Ông đã có rất nhiều những tác phẩm viết về mảng đề tài này, đặc biệt là hình ảnh của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rừng Tây Nguyên.

    Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành là truyện ngắn “Rừng xà nu”, tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Trong số những con người hiên ngang bất khuất của làng Xô Man nổi bật lên là hình ảnh Tnú. Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thể qua lời kể của già làng bên bếp lửa nhà ưng.

    Nhìn lại chặng đường đời của Tnú, chúng ta có thể dễ dàng thấy hiện lên hình ảnh một Tnú trước và sau khi đứng lên cầm vũ khí. Trước khi cầm vũ khí, ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan góc, dũng cảm biểu lộ một tính cách táo bạo mạnh mẽ. Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm. Cậu thật sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ nguỵ ít khi phục kích ở chỗ nước chảy xiết.

    Người đọc cảm thấy một cái gì thật đáng yêu ở sự quan tâm học chữ không chịu thua kém ai của Tnú. Cậu bé này dám lấy đá đập vào đầu mình khi học cái chữ không sáng bằng Mai. Và đặc biệt sự gan dạ dũng cảm của Tnú khi bị giặc bắt, chú bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và nói: “Cộng sản ở đây này”. Mặc cho những vết dao chém dọc ngang trên tấm lưng bé nhỏ Tnú vẫn không khai báo, vẫn gan dạ kiên cường. Trước những trận đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù, Tnú thật may mắn khi được học cái chữ và được giác ngộ cách mạng từ rất sớm.

    Khi thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu biết được tôi luyện qua nhiều thử thách. Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng. Theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần nữa anh đã đi 3 ngày đường lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà là để mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy.

    Không chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi, Tnú còn có một cuộc sống hạnh phúc với tình yêu của Mai, với đứa con mới chào đời. Nhưng quãng thời gian hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, buôn làng còn chưa kịp cầm vũ khí. Tnú và thanh niên trong làng phải trốn vào rừng để rồi một mình Tnú lại xông ra mong che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của kẻ thù, nhưng cả hai đều không sống được.

    Cảnh tượng về cái chết đau thương trong đêm ấy cứ trở đi trở lại trong lời kể của già làng và dòng hồi ức đau đớn của anh. Không những không cứu được vợ con, Tnú còn bị kẻ thù đốt cháy mười đầu ngón tay “Mỗi ngón chỉ còn hai đốt…. không mọc lại được”. Nỗi đau thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản dị vừa sâu sắc của cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

    Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn lao biết bao. Hình ảnh Tnú hiện lên như những anh hùng thời nào trong các khan, trong các trường ca Tây Nguyên. Khi đốt cháy 2 bàn tay của Tnú kẻ thù muốn dập tắt ý chí phản kháng, muốn tiêu diệt khát vọng chiến đấu của người dân Xô Man. Chúng muốn người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay trong kiếp nô lệ thấp hèn dưới lưỡi gươm và nòng súng tàn bạo của chúng.

    Nhưng Tnú và người dân làng Xô Man không cam chịu khuất phục, mà ngược lại họ đã phản kháng quyết liệt. Họ đã biết vượt lên đau thương để vùng lên cầm vũ khí tự giải phóng mình. Lửa đã thiêu cháy mười đầu ngón tay Tnú, lửa bùng cháy trên mười đầu ngón tay tẩm nhựa xà nu. Nhưng Tnú không thấy đau đớn, anh chỉ thấy lửa cháy ở trong lòng – ngọn lửa chiến đấu sẽ thiêu cháy kẻ thù. Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã vang vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng hét ấy như khơi dậy cao độ lòng căm thù giặc của cả buôn làng.

    Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất. Đêm ấy lửa cháy suốt trong bếp lửa nhà ưng. Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cái đêm nổi dậy ấy thật hào hùng, sôi động: “Tiếng chiêng nổi lên, đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn suốt đêm nghe cả rừng Xôman ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng. Cái đêm nổi dậy ấy đâu chỉ là của dân làng Xôman mà là sự lớn dậy phi thường của cả 1 cộng đồng, dân tộc. Dường như trong đêm ấy đang sống lại cái không khí linh thiêng hào hùng của những thiên sử thi Tây Nguyên”

    Một điều không thể thiếu khi nhắc tới cuộc đời của Tnú đó chính là hình ảnh hai bàn tay của anh. Đôi bàn tay bị đót cháy của Tnú đã nhóm lên ngọn lửa căm thù giặc sâu sắc của dân làng Xôman, nó còn soi sáng cuộc đời anh. Anh đã thay mặt người dân làng Xôman lên đường theo kháng chiến đi tìm những thằng Dục khác.

    Bởi lẽ không phải ngẫu nhiên tác giả lại để cho Tnú kể với dân làng mình sự đối đầu của anh với kẻ thù sau này: “Tôi nói: này tao có súng đây, tao có cả dao găm đây nhưng tao không giết mày súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục. Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ mày thôi”. Nhà văn đã cố tình tô đậm hình ảnh đôi bàn tay Tnú – đôi bàn tay có cả một lịch sử, một số phận.

    Lúc còn nhỏ, đôi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù làm nương phát rẫy. Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chứ không sáng dạ bằng Mai. Và đôi bàn tay ấy dám chỉ vào bụng mình mà nói với quân giặc “Cộng sản ở đây này” khẳng định lòng trung thành với cách mạng. Lớn lên đôi bàn tay xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu thương và cũng đôi bàn tay ấy xé tấm đồ làm nịu cho đứa con thơ dại.

    Lửa đốt cháy mười đầu ngón tay để rồi mãi mãi chỉ còn hai đốt không bao giờ mọc lại được….. cho nên Tnú muốn dùng đôi bàn tay ấy để giết chết kẻ thù. Bao uất hận căm hờn đã dồn lên đôi bàn tay kia, nó đã trở thành biểu tượng cho ý chí bất khuất, cho sức sống mãnh liệt của Tnú và người dân làng Xôman.

    Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đôi bàn tay nhưng không thể tiêu diệt được sức mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người họ. Đó là ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng. Đó là một dân tộc kiên cường dũng cảm như những khu rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào bị thương mà vẫn xanh tươi bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời.

    Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu biểu của con người mang đạm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên. Và qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.

    Có thể nói qua thiên truyện ngắn xuất sắc này của Nguyễn Trung Thành, người đọc càng thêm hiểu và thêm trân trọng con người Tây Nguyên với biết bao phẩm chất thật đẹp, thật cao quý.

Dàn ý Phân tích nhân vật cụ Mết

I. Mở bài

– Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, với nhiều tác phẩm đặc sắc.

– Rừng xà nu là khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.

– Một trong những nhân vật mang đậm chất sử thi là cụ Mết.

II. Thân bài

– Ngoại hình:

    + Quắc thước: “râu dài đến ngực mà vẫn đen bóng”, “vết sẹo ở má phải láng bóng”, cụ là người đã trải qua nhiều thăng trầm

    + “bàn tay nặng trịch như kìm sắt”, “ngực căng như một cây xà nu lớn”, …mang dáng dấp của anh hùng trong sử thi Tây Nguyên.

– Cụ là người quắc thước và nghiêm nghị:

    + Giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực ”: vừa thể hiện sức mạnh thể chất vừa thể hiện sức mạnh quyền uy của người chỉ huy.

    + Mỗi câu nói như một chân lí “không có gì mạnh bằng cây xà nu trên đất ta”, “cán bộ là Đảng, Đản còn, núi nước này còn”, “chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo”.

– Cụ Mết có tình yêu quê hương sâu sắc

    + Dẫn Tnú ra máng nước đầu làng gội rửa, để nhắc nhở những ai đi xa nhớ về ngườn cội, quê hương.

    + Tự hào về tất cả mọi thứ trên quê hương: “Không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này”.

    + Vì muốn bảo vệ quê hương nên luôn tìm hướng đi đúng đắn cho buôn làng: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”.

– Là người giàu tình yêu tình yêu thương:

    + Hết lòng thương yêu và tin tưởng Tnú – chàng trai trẻ có số phận bi tráng: nồng hậu đón Tnú trở về, xót thương khi nhìn những ngón tay còn hai đốt của Tnú, luôn động viên anh: “Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được”

    + Xúc động khi kể lại cho dân làng nghe câu chuyện của Tnú, cụ “vụng về trở bàn tay lau một giọt nước mắt”

    + Nhận được muối, dù ít ỏi cụ vẫn chia đều cho mọi người trong buôn làng.

– Cụ Mết là người biết nhìn xa trông rộng: dự trữ lương thực đủ ăn để đánh giặc, biết rõ được sức mạnh chưa đủ khi chưa có vũ khí nên không liều mạng xông ra cứu Tnú,…

– Cụ chính là người chỉ đường dẫn lối. Là chỗ dựa tinh thần cho dân làng.

– Nhận xét: Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hiện thân cho truyền thống thiêng liêng, hội tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên, mang dáng vẻ của người anh hùng với sức mạnh phi thường trong sử thi.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận của bản thân về hình ảnh cụ Mết.

– Khái quát nghệ thuật: với kết cấu truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng đặc sắc, ngôn ngữ đậm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị, xây dựng hình tượng, …

– Thông qua câu chuyện của dân làng Xô Man, tác giả đã đặt ra vấn đề có ý nghĩ lớn lao với dân tộc: Để cho sự sống của đất nước và nhân mãi trường tồn thì không có cách nào hơn là đoàn kết đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù.

Phân tích nhân vật cụ Mết

    Trong truyện ngắn Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành, nếu được hỏi nhân vật nào là một chứng nhân lịch sử đi cùng những biến cố thời đại và con người của dân làng Xô Man thì có lẽ câu trả lời chính là cụ Mết. Dù không xuất hiện nhiều hay được miêu tả nhiều trong câu chuyện tuy nhiên cụ Mết lại đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc đời của Tnú, của quá trình đấu tranh của dân làng Xô Man.

    Cụ Mết là một già làng, có thể nói là trưởng làng của buôn làng Xô Man. Cụ là người đàn ông mạnh mẽ, nghị lực và đầy khí phách. Khí phách của cụ đã được tác giả miêu tả qua ngoại hình: cụ có khuôn mặt quắc thước, đôi mắt đen sáng, râu dài tới ngực và có bộ ngực cường tráng, tiếng nói vang ồ ồ trong lồng ngực. Cách miêu tả ngoại hình của cụ Mết cũng cho thấy đây là một con người rất mạnh mẽ, dứt khoát và đầy khí thế. Cụ là người đứng đầu buôn làng Xô Man, đóng vai trò cầm cân nảy mực, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của người dân trong buôn làng.

    Cụ Mết cũng là nhân vật được miêu tả đậm chất sử thi, tính sử thi được biểu hiện thông qua con người cụ từ ngoại hình, tính cách đến hành động của cụ. Cụ rất nghiêm nghị, quắc thước. Khi Tnú về thăm làng, cụ yêu cầu mọi người ngồi vây quanh mình, im lặng để cụ kể chuyện về cuộc đời của Tnú. Và tất cả mọi người kể cả người già, kể cả trẻ nhỏ quả nhiên đã ngồi lặng im lắng nghe từng câu nói của cụ Mết.

    Cả cuộc đời của Tnú, không có chặng đường nào là không có sự chứng kiến của cụ Mết. Có thể nói, nếu câu chuyện của Tnú là câu chuyện của một cuộc đời, của một thời đại thì cụ Mết cũng chính là một phần quan trọng trong đó, cụ còn là người chứng kiến và lưu truyền câu chuyện đó cho những thế hệ tiếp theo.

    Khi Tnú còn nhỏ mồ côi cha mẹ, Tnú lớn lên trong vòng tay bảo bọc của dân làng Xô Man, Tnú cùng Mai nuôi giấu cán bộ trong rừng, tất cả những điều đó một mình Tnú không thể tự làm mà phải có sự định hướng, ủng hộ và giúp đỡ của người dân trong làng Xô Man đặc biệt là cụ Mết.

    Khi Tnú chứng kiến vợ con mình chết và chính bản thân anh cũng lao ra để rồi bị giặc tra tấn thì cụ Mết chính là người cầm quân, dẫn đầu buôn làng tiến lên chiến đấu. Tiếng nói của cụ Mết như là một hiệu lệnh mà tất cả bà con trong buôn làng đều nghe theo. Cụ hô hào mọi người đứng dậy và bản thân cụ là người đi đầu, trực tiếp lao vào quân địch mà chiến đấu.

    Mỗi khi ai đó làm tốt một việc gì, cụ chỉ gật đầu khen “được” đó là một câu nói chất chứa nhiều cảm tình nhưng cũng đầy hi vọng vào tương lai, muốn con cháu của buôn làng phát huy hơn nữa, không tự kiêu mà bỏ quên nhiệm vụ. Con người cụ Mết là vậy nên luôn được Tnú kính trọng, được cả dân làng Xô Man kính trọng. Tnú khi về cũng đến thăm và chào hỏi cụ, lắng nghe cụ nói với một thái độ cung kính. Dân làng thì chỉ chờ và làm theo những hiệu lệnh của cụ. Coi cụ như một hình mẫu mực thước để tất cả cùng noi theo.

    Con người cụ Mết, cũng giống như Tnú cũng như những cánh rừng xà nu đều hiên ngang bất khuất, mang đậm dấu ấn sử thi kiên cường vững chãi trước bão tố cuộc đời, trước hoàn cảnh lịch sử đầy tai biến. Cụ Mết một lòng trung thành với Đảng, với cụ Hồ, với cách mạng. Khi thấy Tnú về và đạt được những chiến tích nhất định trong chiến đấu, cụ mừng lắm, cụ luôn tỏ thái độ tôn kính đối với Bác, với cộng sản. Cụ dù tuổi đã cao nhưng vẫn là một cây xà nu đại thụ giữa cánh rừng xà nu đại ngàn của núi rừng Tây Nguyên.

    Nếu không có cụ Mết có lẽ câu chuyện về cuộc đời Tnú, về buôn làng Xô Man sẽ không được kể hoặc sẽ được kể trên một phương diện khác, cái nhìn khác. Cụ Mết chính là người giữ lửa, truyền lửa, truyền tinh thần yêu nước, nhiệt huyết cách mạng đến tất cả các thành viên trong buôn làng Xô Man. Cụ cũng là một biểu tượng anh hùng, một con người sử thi đối với câu chuyện Rừng xà nu nói riêng và đối với cả buôn làng Xô Man nói chung.

Dàn ý Phân tích hình tượng cây xà nu

1. Mở bài

–     Rừng xà nu truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành tiêu biểu cho “khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn” của văn học Việt Nam thời kì 1945 – 1975.

–     Chủ đề của tác phẩm được bộc lộ sâu sắc do ý nghĩa khái quát và giàu chất lãng mãn, tạo hình của hình tượng cây xà nu.

2. Thân bài

Nguyễn Trung Thành đã chọn một loại cây xà nu rất gần gũi với đời sống của đồng bào Tây Nguyên để tượng trưng cho sức sống mãnh liệt và phẩm chất anh hùng của dân làng Xô Man, nhân dân Tây Nguyên trong công cuộc chống Mĩ cứu nước.

a)   Cách tả cảnh “rừng xà nu ” và “cây xà nu

–     Trong truyện, Nguyễn Trung Thành gần 20 lần nói đến rừng xà nu ở nhiều góc độ khác nhau: cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu, v.v… và khái quát, bao trùm là rừng xà nu.

–     Cây xà nu sinh sôi nảy nở nhanh mạnh bạt ngàn: “sinh sôi nảy nở khỏe… ham ánh sáng mặt trời”, trải dài ra “đến hết tầm mắt… nối tiếp tớichân trời”.

–     Cây xà nu có sức sống mãnh liệt: “cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh, ròn, hình nhọn như mũi tên lao thăng lên bầu trời”, “có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoăt như những mũi lê”, “đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”.

–     Chất sử thi của truyện ngắn được tạo bởi hình tượng cây xà nu. Nó được khai thác từ nhiều góc độ, lặp đi lặp lại nhiều lần: đôi xà nu (4 lần), rừng xà nu (5 lần) với “hàng vạn cây” “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra,che chở cho làng”.

b)  Rùng xà nu biểu tượng cho con người – dân làng Xô Man nói riêng, đồng bào Tây Nguyên nói chung:

–     Hình tượng cây xà nu đẹp như hình tượng thơ, tượng trưng cho thế hệ trẻ của làng Xô Man bất khuất, gắn bó với cách mạng như Mai, Dít, Tnú, v.v…

–     Hình ảnh cụ Met – tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô Man, người nuôi giữ ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó với Đảng, với cách mạng cũng được ví “như một cây xà nu lớn”.

–     “Cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng…” là hình ảnh “đồng khởi” mãnh liệt của dân làng Xô Man.

–     Rừng cây xà nu và con người làng Xô Man tuy hai mà một, mang ý nghĩa biểu tượng rất cao đẹp và sâu sắc.

3. Kết bài

–     Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành.

–     Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới, đã miêu tả nó đậm nét, đầy ấn tượng – từ đó mà chủ đề của tác phẩm đã được bộc lộ rõ rệt và sâu sắc.

Phân tích hình tượng cây xà nu

     Trải qua hơn 120 năm kháng chiến hào hùng và gian khổ, những trang sử vẻ vang của dân tộc ta đã ghi lại biết bao chiến công lẫy lừng làm rạng danh Tổ quốc, khiến quân thù phải khiếp sợ, khiến cả thế giới phải khâm phục một dân tộc máu đỏ da vàng tuy nhỏ bé nhưng có tầm vóc to lớn. Nhưng để có những chiến công oanh liệt, để đất nước được độc lập, để nhân dân ta được sống trong cảnh hòa bình ấm no, cha anh ta đã phải đánh đổi bằng rất nhiều xương máu, mồ hôi và nước mắt. Trong những năm tháng đế quốc mỹ nhắm đại bác vào vùng núi rừng Tây Nguyên hiền hòa, đã có một dân tộc anh hùng đứng lên ưỡn ngực, vươn mình chống lại quân thù. Tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành khắc họa sâu sắc hình ảnh những người con kiêu hùng trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc, mà trong đó nổi lên với hình ảnh cây xà nu đẹp đẽ có ý nghĩa biểu tượng to lớn, là đại diện cho từng người dân làng Xô Man chống giặc, là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt và nhiều phẩm chất cao đẹp của người dân Tây Nguyên.

     Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, còn có bút danh khác là Nguyên Ngọc, ông sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ông gia nhập quân đội vào năm 1950, lúc đang còn là học sinh trung học, có mặt tại chiến trường Tây Nguyên trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nguyễn Trung Thành sáng tác nhiều thể loại từ truyện ký, tiểu thuyết, đến truyện ngắn, tùy bút,…Các sáng tác của ông mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nội dung chủ đề tập trung viết về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, về những vấn đề mang tính trọng đại lịch sử của dân tộc, đặc biệt ông viết rất nhiều về vùng đất Tây Nguyên đầy nắng và gió. Rừng xà nu nằm trong tập truyện ký Trên quê hương những anh hùng Điện ngọc, viết vào năm 1965, khi quân Mỹ Diệm tràn vào miền Nam càn quét bắn phá ác liệt.

     Hình tượng rừng cây xà nu xuất hiện nổi bật và xuyên suốt chiều dài tác phẩm, mở ra là rừng xà nu bạt ngàn và kết thúc tác phẩm cũng là hình ảnh rừng xà nu chạy dài đến tận chân trời. Không những thế, hình ảnh cây xà nu còn trải kín cả tác phẩm, có đến hơn 20 lần trong toàn tác phẩm, điều ấy đã tái hiện lại những vẻ đẹp kỳ thú đặc trưng của mảnh đất Tây Nguyên, đồng thời mang ý nghĩa biểu tượng về sức sống và vẻ đẹp của những con người Tây Nguyên.

     Bằng bút pháp tả thực, Nguyễn Trung Thành đã cho thấy hình ảnh cây xà nu trở đi trở lại và gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người Tây Nguyên, có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân nơi đây, ngọn lửa xà nu “dần dật cháy” trong bếp của mỗi ngôi nhà, khói xà nu làm bảng học cho Tnú và Mai. Hình ảnh cả cánh rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn ra để che chở cho làng Xô Man bởi “Làng nằm trong tầm đại bác của giặc”, giống như người cha che chở cho đứa con nhỏ của mình, như nhà thơ Tố Hữu đã viết trong bài thơ Việt Bắc rằng: “Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”, gắn bó, ân tình.

     Không chỉ có mặt trong cuộc sống hằng ngày mà cây xà nu còn tham dự vào trong những sự kiện trọng đại của dân làng Xô Man. Trong đêm mà vợ con Tnú bị giặc bắt giữ, đống lửa xà nu đã để Tnú nhìn rõ ràng cảnh kẻ thù hành hạ vợ con, rồi thì chính nhựa xà nu lại thiêu đốt 10 ngón tay của Tnú như mười ngọn đuốc, điều ấy đã trở thành giọt nước tràn ly, cổ vũ dân làng Xô Man đứng lên đấu tranh giết mười tên giặc ác ôn để giải cứu Tnú và lập lên chiến công đầu tiên trong cuộc chiến chống lại kẻ thù của dân làng. Từ đây người làng Xô Man đã mạnh mẽ đứng lên, không còn do dự chần chừ, bởi chỉ có đấu tranh chỉ có cách dùng vũ lực thì mới có thể có một cuộc sống tốt hơn, mới có thể bảo vệ được dân làng và đất nước. Hình ảnh của cây xà nu cũng trở lại trong đêm Tnú về thăm làng, đuốc xà nu lại dẫn đường cho người dân khắp làng Xô Man cùng tụ tập về nghe cụ Mết kể về cuộc đời của Tnú, câu chuyện một đời người kể trong một đêm, ánh lửa xà nu càng trở nên thiêng liêng và đậm tính sử thi. Thêm vào đó hình ảnh xà nu còn thấm vào nếp cảm, nếp nghĩ thấm vào cả lối tư duy và cách nói của người dân Tây Nguyên, những tính chất vẻ đẹp của cây đã trở thành thước đo để khắc họa lần lượt hình ảnh của cụ Mết, của Tnú, Mai, và nhiều người dân làng Xô Man khác.

     Với bút pháp tượng trưng, hình ảnh cây xà nu lại là biểu tượng cho số phận và phẩm chất của người dân Tây Nguyên. Nói về số phận của người dân làng Xô Man, mở đầu tác phẩm Nguyễn Trung Thành viết “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” ấy là một cảnh tượng ám ảnh về một rừng cây tan hoang bởi đại bác của quân thù, trầy trợt đầy những thương tích. Đến gần hơn, hình ảnh tang thương của cây xà nu càng thêm rõ ràng, “Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”, từ miệng vết thương ấy ứa ra thứ nhựa “tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh”, “bầm lại quyện đen thành những cục máu lớn”, như vậy đối với tác giả xà nu cũng giống như một con người cũng có máu thịt, cây cũng bị thương, nhựa cây chảy ra được ví là máu huyết của sinh thể, những hòn máu đọng đem lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc về loài cây anh hùng, bất khuất. Nhưng đấy là những cây may mắn, kiên cường còn có thể lành miệng và tiếp tục sinh dưỡng, xấu số hơn có những cây con mới đến ngang tầm ngực người, đã bị đại bác nã phải gãy làm đôi “nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”. Cách miêu tả chân thực sống động đến từng chi tiết đã tái hiện thật tang thương cảnh cây xà nu ngã xuống vì bom đạn. Suy rộng ra, cũng giống như cả cánh rừng mang đầy thương tích và mất mát ấy, người dân làng Xô Man cũng phải chịu biết bao hy sinh, bao nỗi đau thương cùng cực, bao người dân đã ngã xuống: Anh Xút, bà Nhan, Mai và con của cô với Tnú, tất cả đều hi sinh một cách đầy thương tâm dưới bàn tay độc ác của kẻ thù. Những người còn sống cũng lại mang đầy thương tích trên thể xác và cả tâm hồn, tấm lưng của Tnú với chằng chịt vết dao chém, mười ngón tay bị giặc đốt đều cụt một đốt, đau đớn hơn anh còn phải gánh chịu nỗi đau tận mắt nhìn vợ con bị giặc đánh chết mà không thể làm gì được.

     Không chỉ là biểu tượng cho số phận của con người Tây Nguyên, cây xà nu còn là biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người dân nơi đây. Xà nu là một loài cây khao khát ánh sáng đến lạ kỳ “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng”, đó cũng chính là biểu tượng cho tình yêu tự do, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người Tây Nguyên. Thêm nữa, xà nu còn có khả năng sinh sôi mãnh liệt “cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên , ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên trời”. Đó là biểu tượng cho sự tiếp nối liên tục và mạnh mẽ của người dân làng Xô Man, anh Quyết hy sinh đã có Tnú về thay thế, anh Xút bị giết đã có bà Nhan thay công việc nuôi bộ đội, bà Nhan chết thì đã có lớp trẻ con thay thế, Mai chết thì đã có em gái của Mai tiếp bước chị, và còn cả chú bé Heng. Thế hệ trước luôn có sự chuẩn bị là bước đệm cho thế hệ sau được vươn lên mạnh mẽ và tiến xa hơn trong con đường cách mạng.

     Cây xà nu còn mang trong mình một sức sống bất diệt, mạnh mẽ vô cùng “có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”. Hình ảnh bất diệt của cây xà nu khiến ta lập tức nghĩa đến Tnú tiêu biểu cho lớp anh hùng của làng Xô Man, anh chịu biết bao đau đớn thương tật nhưng anh vẫn sống vẫn hoạt động cách mạng một cách sôi nổi, giặc không bắt được anh, không giết được anh, người anh hùng của vùng đất Tây nguyên. Trong sự khốc liệt, tàn bạo của chiến tranh thì sự sống vẫn vươn lên và chiến thắng cái chết, sức sống mãnh liệt, bất tử của rừng xà nu đã đại diện cho tinh thần bất khuất, kiên cường của người dân Tây Nguyên trong những năm tháng chiến tranh ác liệt.

     Nguyễn Trung Thành với nghệ thuật xây dựng hình tượng xuất sắc, điểm nhìn đậm chất điện ảnh khiến cho hình tượng cây xà nu hiện lên một cách thật chân thực và sắc nét. Đôi lúc tác giả đã không kìm được mà bộc lộ những cảm xúc cá nhân thật mạnh mẽ, niềm bất ngờ, tự hào về loài cây đặc sắc. Bằng bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn nhà văn đã gây dựng thật xuất sắc vẻ đẹp của cây rừng xà nu biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Tây Nguyên, mở một cánh cửa dẫn người đọc vào thế giới của con người nơi đây, tiêu biểu là nhân vật Tnú.

Dàn ý Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong tác phẩm Rừng xà nu

I. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, và vấn đề cần phân tích.

II. Thân bài:

* Nhân vật Tnú:

– Tnú là tượng đài về hình tượng người anh hùng Tây Nguyên trong nền văn học thời kỳ chống Mỹ cứu nước, mang khuynh hướng sử thi và lãng mạn cách mạng sâu sắc, đặc trưng.

– Cậu bé Tnú đã tỏ ra là một người anh hùng, một mầm non sáng giá của cách mạng khi hăng hái tham gia vào công tác nuôi giấu cán bộ, vận chuyển lương thực, thư từ,…

– Bị giặc bắt giam nhưng Tnú không hề hé rằng lấy nửa lời, kiên trung và thách thức bọn giặc khi chúng hỏi cách mạng ở đâu bằng việc chỉ vào bụng mình mà nói “ở đây này”, sau 3 năm bị bắt giam Tnú tìm mọi cách vượt ngục và trở về làng tiếp tục tham gia làm cách mạng.

– Sự anh hùng của Tnú còn thể hiện trong vai trò với gia đình khi nhảy vào giữa bọn giặc ôm lấy vợ con đang hấp hối, che chở cho họ khỏi đòn roi, một cách đầy bản lĩnh và tràn ngập tình yêu thương.

– Dù lửa thiêu đốt mười đầu ngón tay, đau đớn vào đến tận ruột gan, nhưng Tnú không hề kêu văn lấy một tiếng, trong tâm khảm chỉ hiện lên một câu nói “người cộng sản không thèm kêu van”. Thể hiện sự dũng cảm, tầm vóc phi thường của một người anh hùng.

– Mạnh mẽ đứng lên từ đau thương, tiếp tục tham gia kháng chiến, với mối nợ nước thù nhà và lòng căm thù giặc sâu sắc, dùng chính đôi bàn tay cụt mười đầu ngón của mình bắp cò súng diệt giặc trên chiến trường, thậm chí còn mạnh mẽ dùng tay không bóp chết một tên giặc Mỹ.

* Cụ Mết:

– Dấu gạch nối đậm nét giữa dân làng Xô Man với cách mạng và Đảng, mang trong mình những vẻ đẹp sử thi, truyền thống của dân tộc Tây Nguyên với ngoại hình khỏe mạnh cường tráng, giọng nói ồm ồm và tư chất của một người lãnh đạo một già làng có uy tín.

– Sự anh hùng của cụ thể hiện thông qua quá trình trực lãnh đạo dân làng Xô Man tham gia vào kháng chiến:

+ Ngăn cản Tnú và muốn thay anh vào cứu mẹ con Mai.

+ Ra lệnh cho thanh niên trai tráng xông vào cứu Tnú bằng câu nói đậm chất Tây Nguyên “Chém! Chém hết”, mang đến một trận thắng vang dội đầu tiên cho làng Xô Man, hơn mười tên giặc Mỹ bị chém chết, mở ra một thời kỳ mới thời kỳ chiến đấu sôi nổi của dân làng Xô Man.

– Phẩm chất anh hùng của cụ Mết còn bộc lộ trong tầm nhìn và cách lãnh đạo dân làng kháng chiến của cụ.

– Phát động kháng chiến trong làng bằng một những lời tâm huyết, mạnh mẽ cổ vũ tinh thần của dân làng: “Thế là bắt đầu rồi! …Đốt lửa lên!”.

– Tấm lòng giác ngộ cách mạng sâu sắc: “Đảng này còn núi nước này còn”, “Chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo”, bộc lộ sâu sắc phẩm chất anh hùng, kiên trung quyết sống chết để bảo vệ từng tấc đất quê hương, giành lại tự do cho dân tộc.

* Cô Dít:

– Tham gia vào kháng chiến từ khi còn nhỏ với công việc vận chuyển lương thực nuôi giấu cán bộ.

– Không may một lần Dít bị giặc bắt, trước phương thức tra tấn tinh thần khủng khiếp Dít đã bộc lộ được những phẩm chất anh hùng.

– Khi trưởng thành, Dít đã xuất sắc trở thành bí thư chi bộ, vững vàng trên con đường chiến đấu và lý tưởng cách mạng của mình, trở thành một người nữ anh hùng tiêu biểu của vùng rừng núi Tây Nguyên.

* Tập thể làng Xô Man:

– Cả làng có truyền thống đánh giặc từ lâu đời và nhiệm vụ kháng chiến không phải chỉ riêng của một cá nhân nào mà là của cả một tập thể không phân biệt già trẻ, gái trai.

– Lớp này ngã xuống đã có lớp khác kế cận nối tiếp, tiêu biểu như trong việc nuôi giấu cán bộ cách mạng, những người như anh Xút, bà Nhan hy sinh thì lại có những đứa trẻ như Tnú, Mai, Dít, Heng,… trở thành những người tiếp nối những người con anh hùng sáng giá của cách mạng.

III. Kết bài:

– Nêu cảm nhận chung.

Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong tác phẩm Rừng xà nu

    “Tây Nguyên ơi! Hoa rừng bao nhiêu thứ

    Cánh hoa đẹp nhất rừng

    Tây Nguyên ơi! Anh có nhớ buôn làng

    Nhớ người con gái…

    … Nhớ cánh hoa Pơ-lang đẹp nhất rừng Tây Nguyên…”

           (Ca khúc “Em là hoa Pơ-lang” – Đức Minh)

    Ai đã từng lắng nghe tiếng hát ấy trong những tháng ngày sôi sục thời đánh Mĩ? Ai đã từng biết hoa Pơ-lang báu vật của Trời có hàng ngàn cánh, nở tươi thơm ngát hàng vạn năm được nói đến trong “Bài ca chàng Đam Săn”? Tiếng hát ấy còn đem đến cho ta bao xúc động bồi hồi khi nghĩ tới những phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, một kiệt tác viết về đề tài Tây Nguyên thời đánh Mĩ.

    Nguyễn Trung Thành là bút danh của nhà văn Nguyên Ngọc thời đánh Mĩ. Truyện “Rừng xà nu” của ông lần đầu tiên được đăng trên tạp chí Văn Nghệ Quân giải phóng miền Trung. Trung Trung bộ, số 2 năm 1965. Truyện mang đậm tính sử thi, gợi lên một không khí núi rừng thiêng liêng huyền thoại. Cuộc đấu tranh vũ trang của dân làng Xô man chống Mĩ – Diệm diễn ra vô cùng ác liệt đầy máu và nước mắt, sáng bừng ngọn lửa và chiến công. Những con đường, dốc núi, bờ suối chằng chịt hầm chỏng, hố chông, giàn thò lưỡi “sắc lạnh”. Nhà ưng nơi tụ hội của người Strá đã có lúc biến thành pháp trường, chiến trường dữ dội, bi tráng.

    Cả dân làng Xô Man, từ già tới trẻ, từ đàn ông tới đàn bà, ai cũng có trong tay một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, cậy rựa sáng loáng mài bằng đá mài núi Ngọc Linh do anh Tnú gùi về, ai không có giáo mác thì có 500 cây chông. Mỗi người dân là một chiến sĩ, một dũng sĩ nhen nhóm bằng ngọn lửa cách mạng và niềm tin mà anh Quyết cán bộ Đảng hoạt động bí mật đem lại cho dân làng Xô Man: “Đánh Mĩ phải đánh lâu dài”, “cán bộ là Đảng; Đảng còn, núi nước này còn”,…

    Trong những năm dài đen tối khi quân Mĩ – Diệm kéo tới, suốt đêm ngày, chó của nó và súng của nó “sủa vang cả rừng”, thì dân làng Xô Man vẫn thay nhau vào rừng tiếp tế, bảo vệ cán bộ Đảng. Anh Xút bị giặc bắt treo cổ lên cây vả đầu làng, bà Nhan bị giặc chặt đầu, cột tóc treo đầu súng. Nhưng chẳng ai sợ! Người già, trẻ con, Mai và Tnú,… lại thay nhau vào rừng nuôi giấu, bảo vệ cán bộ. Suốt 5 nãm trời, chưa hề có một cán bộ nào bị giặc bắt hay bị giặc giết trong rừng của làng Xô Man. Đó là niềm tự hào, và đó là phẩm chất anh hùng, trung dũng của những người Strá.

    Mỗi người dân làng Xô Man là một chiến sĩ. Cụ Mết già làng, oai phong lẫm liệt. Mắt sáng và xếch. Râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng. Ông cụ ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn. Đã 60 tuổi mà tiếng nói vẫn ồ ồ vang dội trong lồng ngực! Một lời khen “được” của ông cụ làm cho cả làng ai cũng hả dạ. Bàn tay nặng trịch “như một kìm sắt”. Lúc cụ nói, mọi người đều im bặt, trẻ con im lặng thin thít. Cụ Mết đầy uy tín, là một thủ lĩnh quân sự tài ba, quyết đoán. Để chuẩn bị cho cuộc chiến đâu, cụ Mết lãnh đạo dân làng Xô Man đêm đêm thức mài vũ khí, ban ngày đi phát hết các rẫy cũ, trồng pom-chu và sắn xanh mượt cả núi rừng. Trong những giờ phút nghiêm trọng nhất giữa cái sống và cái chết, cụ Mết đã chỉ huy đội du kích từ trong rừng bất ngờ xông lên nhà ưng tiêu diệt lũ ác ôn. Tiếng hô của cụ Mết vang lên: “Chém! Chém hết!”. Những cây rựa sáng loáng vung lên. Dưới lưỡi mác của cụ Mết, thằng Dục chỉ huy nằm gục trên vũng máu. Mười tên giặc bị giết chết, xác ngổn ngang quanh đống lửa xà nu giữa nhà ưng. Chính ” đêm ấy”, tiếng chiêng nổi lên, lửa cháy khắp rừng. Và “cả rừng Xô Man ào ào rung động”. Chính đêm ấy, cụ Mết già làng, người anh hùng bộ tộc trong tư thế lẫm liệt của người chiến thắng đã truyền hịch đánh Mĩ – Diệm vang vọng núi rừng: “Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”.

    Cụ Mết trong truyện “Rừng xà nu” được miêu tả và ngưỡng mộ như một vị anh hùng dân tộc. Cụ đã thắp sáng ngọn lửa chiến đấu và chiến thắng vì chân lí lịch sử: “Chúng nó đã cầm súng, mình phả cầm giáo!”. Cụ đã nhắc nhở mọi người Strá phải giữ lấy truyền thống “thương núi, thương nước” kể lại cho con cháu nghe sau này. Nhân vật cụ Mết, một già làng, một lão du kích phi thường là một thành công đặc sắc của Nguyễn Trung Thành trong nghệ thuật khắc họa tính cách anh hùng sử thi huyền thoại.

    Tnú là một trai làng dũng mãnh, là niềm tự hào của bà con dân làng Xô Man. Cụ Mết đã nói về anh với tất cả tình yêu thương, tự hào: “Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Cuộc đời Tnú đầy máu và nước mắt như bao cuộc đời của người dân làng Xô Man dưới súng đạn của Mĩ – Diệm. Con đường chiến đấu của Tnú là con đường quật khởi của quê hương anh. Hai lần Tnú đi bộ 3 ngày lên núi Ngọc Linh để lấy một xà lét đá trắng về làm phấn, lấy một gùi đá mài đem vể mài vu khí, hành động ấy nói lên lòng khao khát ánh sáng cách mạng và tự do của anh. Phẩm chất anh hùng của Tnú được tôi rèn trong máu lửa chiến tranh. Thuở nhỏ, Tnú vào rừng tiếp tế và bảo vệ anh Quyết, cán bộ “nằm vùng” để học chữ, với niềm tin sắt đá: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Đi giao liên, lúc thì Tnú “xé rừng mà đi” lọt qua các vòng vây của giặc, lúc thì anh cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình, tạo nÊn sự bất ngờ. Bị giặc bắt, Tnú nuốt ngay thư bí mật. Bị giặc tra tấn dã man, bắt khai ai là cộng sản, Tnú đặt tay lên bụng mình và nói: “Ở đây này!”. Lưng anh đầy vết chém, anh vẫn bất khuất, hiên ngang giữ vững lòng trung thành với cách mạng.

    Khi làng Xô Man quật khởi đứng lên mài vũ khí chống Mĩ – Diệm thì Tnú trở thành chỉ huy đội du kích. Với bọn giặc ở đồn Đắc Hà, anh là “con cọp… làm loạn rừng núi”… Tnú căm thù sôi sục quân giặc khát máu. Mắt anh trở thành khi lũ ác ôn giáng “trận mưa cây sắt” xuống vợ con anh. Anh coi bọn thằng Dục là “đồ ăn thịt người!”. Tnú đã nhảy xổ vào lũ giặc để cứu vợ con, “hai cánh tay rộng lớn như hơi cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Hình ảnh Tnú bị giặc tra tấn, đốt cháy mười ngón tay thành mười ngọn đuốc, mắt anh trừng trừng, anh cắn nát mòi, nghe lửa cháy trong lồng ngực… “anh không thèm kêu van”, đã làm cho chúng ta vô cùng cảm phục. Anh đã nêu cao một tư thế lãm liệt hiên ngang. Con người anh tường như được đúc bằng thép! Khí phách của Tnú là khí phách của người anh hùng sử thi. Tình tiết Tnú xông xuống hầm ngầm giặc, không dùng súng, không dùng dao mà chỉ giết thằng chỉ huy ác ôn bằng mười ngón lay, ngón nào cũng bị cháy mất một đốt – đã nói lên ý chí căm thù giặc không bao giờ nguôi trong lòng anh. Lòng căm thù đã cho Tnú sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.

    Nguyễn Trung Thành đã khắc hoạ đôi bàn tay Tnú để tô đậm phẩm chất anh hùng của đứa con yêu làng Xô Man. Nếu ngọn lửa thần A-nhi đã soi sáng lòng kiên trinh của nàng Si-ta trong sử thi Ra-ma-ya-na, thì ngọn lửa xà nu trên mưòi ngón tay đã làm sáng bừng lên dũng khí và tinh thần bất khất của nhân vật Tnú anh hùng. Dưới ngòi bút Nguyễn Trung Thành, nhân vật Tnú mang vẻ đẹp huyền thoại.

    Mai và Dít là hình ảnh người phụ nữ mới của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mĩ. Thuở bé, Mai đã vào rừng tiếp tế và bảo vệ cán bộ. Mai học chữ rất giỏi, ba tháng đọc được chữ, sáu tháng làm được toán hai con số. Khi đã trở thành người vợ, người mẹ, Mai đã dũng cảm lấy thân mình để bảo vệ đứa con thơ, và chị đã bất khuất hi sinh trước trận mưa cây sắt của thằng giặc khát máu. Dít là em gái của Mai. Cái mũi hơi tròn, đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt. Lớn lên, Dít càng giống Mai. Dít cũng bị giặc bắt khi Dít đi vào rừng tiếp tế cho đội du kích. Lũ giặc đã biến Dít thành “tấm bia sống”, bắn sượt qua tai, sém tóc, váy rách tượt từng mảnh. Từ viên đạn thứ mười trở đi, Dít chùi nước mắt, im bặt, “nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng!”. Thật là gan dạ, lẫm liệt. Chỉ 3 năm sau, Dít đã trở thành Bí thư chi bộ kiêm Chính trị viên xã hội, linh hồn cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Có thể nói Mai và Dít tiêu biểu cho những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”, đã gắn bó cuộc đời mình với sự sống còn, với đau thương và uất hận, với nhục và vinh của dân tộc trong thời đánh Mĩ.

    Đọc truyện “Rừng xà nu”, ta không thể nào quên được bé Heng, mặc dù tác giả chỉ phác hoạ một vài nét. Đó là một chú bé nhanh nhẹn, thông minh, thuộc mọi con đường, những hầm chông, những giàn thò, những ác chiến điểm của làng mình như thuộc lòng bàn tay mình. Người nhỏ bé, đóng khố, áo bà ba dài phết đít, đầu đội một cái mũ sụp xin được của anh Giải phóng quân nào đó. Một khẩu súng trường mát đeo chéo ngang lưng “ra vẻ một người lính thực sự”. Khi thì Heng nhắc Tnú không được uống nước lã. Khi thì Heng giới thiệu về chị Dít. Heng giục Tnú đi nhanh, “sắp tối rồi!”. Nó hất hàm ra hiệu, thân mật nói với Tnú: “Lâu ngày về, chân không leo nổi cái dốc nữa à!”. Em báo cho Tnú biết: “Chông đấy! Có chông đấy!…”. Heng tháo cây súng chống xuống đất và gọi to; “Người già ơi, có khách đấy!”. Heng chỉ là người dẫn đường, chỉ là người dẫn chuyện, xuất hiện trong khoảnh khắc. Thế mà đầy ấn tượng, đó là cái tài của Nguyền Trung Thành trong miêu tả nhân vật. Bé Heng đã trưởng thành cùng cuộc chiến đấu vũ trang của dân làng Xô Man. Con người em đã hình thành bao phẩm chất anh hùng. Em là một cây xà nu, một cây con mới mọc “vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã…” trong bom đạn giặc!

    Thời kháng chiến, cây tre, cây dừa, cây đước đã được một số nhà văn, nhà thơ dành cho một địa vị sang trọng: “Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín.Tre hi sinh để bảo vệ con người” (“Cây tre Việt Nam” – Thép Mới). Với Nguyễn Trung Thành, cây xà nu, một loại cây “man dại mà cao quý đáng yêu” đã trở thành một biểu tượng, một nhân vật mang bao phẩm chất tốt đẹp, anh hùng. Trong truyện, cây xà nu, đồi xà nu, rừng xà nu, cành lá xà nu, ngọn xà nu, nhựa xà nu, lửa xà nu,… được nhắc đến rất nhiều lần, đầy ấn tượng. Cây xà nu là cảnh quan, là vẻ đẹp hùng vĩ của làng Xô Man: “… trông ra xa, hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Đồi xà nu trùng điệp ấy gợi cho ta liên tưởng về người người lớp lớp trong thế trận chiến tranh nhãn dân, trong cuộc diễu binh hùng vĩ. Mưa đại bác của giặc giội xuống suốt đêm ngày đà hơn ba năm nay, cây xà nu cùng chung số phận đau thương tang tóc với người Strá. Hàng vạn cây xà nu không có cây nào không bị thương. Đại bác giặc chặt đứt ngang nửa thân mình, cây xà nu “đổ ào ào như một trận bão”. Một cảnh tượng dữ dội, một tư thế lẫm liệt hiên ngang. Cây xà nu bị thương, nhựa ứa ra tràn trề “đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Cũng như những em bé – những nạn nhân trong chiến tranh, những cây xà nu vừa lớn ngang tầm ngực, nhựa còn trong, dầu còn loãng, bị trúng đạn, vết thương cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Cây xà nu được nhân hóa; nỗi đau của rừng xà nu mãi mãi là vết thương lòng của con người trong nhiều năm tháng. Cây xà nu cố một sức sống phi thường, vồ cùng mãnh liệt. Nó là loại cây ham ánh sáng mặt trời nhất trong rừng. Ở một gốc cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Một so sánh rất đẹp thể hiện một tư thế hiên ngang dũng mãnh trong lửa đạn. Nhựa xà nu “thơm mỡ màng”, “thơm ngào ngạt”, đó là phẩm chất cao quý để lại cho đời. Rừng xà nu, đồi xà nu mang tầm vóc dũng sĩ. Nếu cây tùng trong thơ Ức Trai có tài đống lương “nhà cả đòi phen chống khỏe thay”, để lại hổ phách, phục linh “dành còn để trợ dân này”, thì rừng xà nu đã hai ba năm nay, “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Qua đó, ta thấy thời chiến tranh, cây cỏ đã cùng con người chung sức, chung lòng đánh giặc để giữ làng giữ nước. Đọc truyện “Rừng xà nu”, một ấn tượng sâu sắc đối với mỗi chúng ta là đống lửa xà nu rực cháy trên nhà ưng đă làm cho lưỡi mác của cụ Mết, mũi giáo của đội du kích them sáng loáng, đã soi tỏ xác lũ ác ôn ngổn ngang trên những vũng máu. Cây xà nu, lửa xà nu đã cùng dân làng Xô Man chan hòa trong niềm vui thắng trận.

    Cụ Mết đã nói với Tnú: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!”. Đó là lời thách thức! Đó là niềm tự hào của già làng, của người dân làng Xô Man về rừng xà nu yêu quý. Nguyễn Trung Thành đã viết nên những trang văn xuôi tráng lệ nhất, mang âm hưởng anh hùng ca về cây xà nu. Cây xà nu là một hình tượng kì vĩ, cũng là một nhân vật sử thi thần kì.

    Truyện “Rừng xà nu” là một kiệt tác văn chương. Cảm xúc dồn nén, sự kiện dồn nén, đúng là “truyện của một đời người được kể trong một đêm, đó là cái đêm dài như cả một đời người”. Từ cây xà nu đến con người, tất cả đều phi thường, đều mang theo bao phẩm chất anh hùng. Tất cả đều tượng trưng cho khí phách và sự sống phi thường của con người, của thicn nhiên núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. Có người đã ca ngợi thiẽn truyện “Rừng xà nu” là “khúc tráng ca về tự do” thời đánh Mĩ.

Văn mẫu lớp 12 ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*