Mục lục bài viết
I. Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận
1. a, Những từ ngữ biểu lộ tình cảm mãnh liệt của tác giả trong bài văn:
Từ ngữ: muốn hòa bình, phải nhân nhượng, càng lấn tới, quyết tâm cướp nước ta, thà hi sinh, nhất định không, phải hi sinh tới giọt máu cuối cùng, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
Những câu cảm thán:
+ Hỡi đồng bào toàn quốc!
+ Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
+ Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước nhất định không chịu làm nô lệ.
– Cả Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn và Lời kêu gọi toàn dân kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều giống nhau ở việc đều sử dụng nhiều từ ngữ và câu văn giàu tình cảm.
b, Cả hai văn bản này đều là văn bản nghị luận vì hai văn bản này không nhằm bộc lộ cảm xúc mà hướng tới tác động tới lý trí của người đọc, buộc người đọc phải hiểu và phân tích được để bàn về lẽ phải, trái, đúng sai của một quan điểm, một ý kiến.
c, Những câu văn ở đoạn 2 hay hơn đoạn 1 vì giàu sức biểu cảm khi kết hợp những từ ngữ bộc lộ tình cảm, thái độ của người viết.
Yếu tố biểu cảm khi đưa vào văn nghị luận sẽ có hiệu quả thuyết phục hơn, tác động mạnh mẽ tới người đọc (người nghe).
2. Phương pháp phát huy tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận:
– Người viết ngoài việc suy nghĩ về luận điểm, lập luận còn phải thực sự xúc động trước những điều mình đang nói tới.
– Không chỉ cần rung cảm, mà cần phải có tình cảm, cảm xúc thực sự trước những vấn đề mà mình trình bày.
– Không phải bài văn cứ sử dụng nhiều từ ngữ biểu cảm và câu cảm thán thì giá trị biểu cảm tăng vì những yếu tố này chỉ là phụ trợ. Cảm xúc, sự rung động thực sự chứ không phải sự đưa đẩy bóng bẩy bằng ngôn từ.
II. Luyện tập
Bài 1 ( trang 97 sgk Ngữ văn 8 tập 2):
Những yếu tố biểu cảm trong phần I – Chiến tranh và “Người bản xứ” được thể hiện trong hệ thống các từ ngữ đối lập nhau, hoặc mang tính chất mỉa mai, châm biếm.
Những yếu tố biểu cảm trong ” Chiến tranh và người bản xứ” ( Thuế máu) được thể hiện trong hệ thống các từ ngữ đối lập hoặc mang tính chất mỉa mai châm biếm.
+ Những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít” bẩn thỉu >< những đứa con yêu và những người bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do.
+ Chiến tranh vui tươi, vinh dự đột ngột >< đột ngột lìa xa vợ con, phơi thây trên các bãi chiến trường.
+ Cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, >< xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái.
+ Bỏ xác tại những miền hoang vu, thơ mộng.
+ Lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế, lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy.
+ Khạc ra từng miếng phổi.
– Tác dụng của những từ ngữ này:
+ Giúp người đọc thấy được bản chất lọc lõi, lừa đảo và bộ mặt thâm độc, quỷ quyệt của bọn thực dân Pháp trong việc sử dụng người dân thuộc địa làm bia đỡ đạn cho chúng.
Bài 2 ( trang 97 sgk Ngữ văn 8 tập 2):
Đoạn trích trong bài tập này đã thể hiện những cảm xúc chủ yếu sau đây của tác giả:
– Nỗi buồn của người thầy- nhà giáo tâm huyết với nghề dạy học- trước tình trạng học tủ, học vẹt của học sinh.
– Nỗi dằn vặt, lo lắng, của nhà giáo trước một thực tế đáng buồn diễn ra trong đời sống giáo dục của nước nhà thời kì trước.
Đoạn trích không những tác động tới ý chí mà còn tác động tới tình cảm bởi:
+ Giọng văn chứa đầy những tâm sự, nỗi day dứt, băn khoăn của người viết.
+ Câu văn được viết dưới dạng tu từ, mang tính chất bộc lộ thái độ và thể hiện nỗi đau của tác giả một cách kín đáo: Nói làm sao cho… Không có lí do gì phải nhấm bút… Sao không có một “hãng” nào đó in ra…
– Từ ngữ thể hiện thái độ đau xót, buồn bã trước thực trạng học vẹt của học sinh: nỗi khổ tâm, đeo một cái nghiệp, năm trời, việc gì phải lôi thôi…
Bài 3 ( trang 98 sgk Ngữ văn 8 tập 2):
Muốn chiếm lĩnh được tri thức cần có phương pháp khoa học thay vì việc học tủ và học vẹt. Học vẹt là học chay, học không khoa học, tràng giang đại hải, học theo kiểu bắt chước một cách vô thức, không hiểu bản chất của vấn đề. Còn học tủ là lối học lỏi, chọn phần tiếp thu nhanh để học. Hai lối học tai hại này đều gây ra hậu họa khôn lường. Học tủ có thể bị “lệch tủ”, “trật tủ” và khả năng bị điểm liệt, điểm yếu rất báo động. Học vẹt khiến cho học sinh rỗng kiến thức và làm mất đi lối tư duy phân tích, tổng hợp vấn đề. Cả hai cách học này đều khiến học trò bị mất phương hướng, và hoàn toàn trống rỗng khi học. Kiến thức thực sự, khả năng sáng tạo và phát triển trí tuệ sẽ không được bị triệt tiêu bởi hai phương pháp học tủ và học vẹt lệch lạc, phiến diện.
Soạn bài Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận (siêu ngắn)
I. Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận
Câu 1 (trang 95 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Đọc văn bản và trả lời câu hỏi
a, Những từ ngữ biểu lộ tình cảm mãnh liệt của tác giả trong bài văn:
– Từ ngữ: muốn hòa bình, phải nhân nhượng, càng lấn tới, quyết tâm cướp nước ta, thà hi sinh, nhất định không, phải hi sinh tới giọt máu cuối cùng, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
– Những câu cảm thán:
+ Hỡi đồng bào toàn quốc!
+ Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
+ Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước nhất định không chịu làm nô lệ.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và Hịch tướng sĩ giống nhau ở chỗ cùng có sử dụng nhiều từ ngữ và nhiều câu văn có giá trị biểu cảm.
b. Tuy nhiên, Hịch tướng sĩ và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đều là văn bản nghị luận chứ không phải văn bản biểu cảm vì: Mục đích của 2 văn bản là để nghị luận nhằm cổ vũ, động viên, khích lệ. Yếu tố biểu cảm chỉ là yếu tố bổ sung làm tăng tính thuyết phục cho 2 văn bản nghị luận.
c. Các câu ở cột (2) hay hơn các câu ở cột (1) tuy cùng diễn đạt một nội dung thông tin như nhau là vì các câu ở cột (2), lí lẽ được hỗ trợ bởi các yếu tố biểu cảm
Tóm tắt
Câu 2 (trang 96 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Phương pháp phát huy tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận:
– Phải có luận điểm rõ ràng, mạch lạc
– Thật sự có cảm xúc trước những điều mình viết (nói)
– Phải biết diễn tả cảm xúc đó bằng nhiều từ ngữ, câu văn có sức truyền cảm
– Không phải bài văn cứ sử dụng nhiều từ ngữ biểu cảm và câu cảm thán thì giá trị biểu cảm tăng vì những yếu tố này chỉ là phụ trợ. Cảm xúc, sự rung động thực sự chứ không phải sự đưa đẩy bóng bẩy bằng ngôn từ.
II. Luyện tập
Câu 1 (trang 97 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
Những yếu tố biểu cảm trong phần I – Chiến tranh và “Người bản xứ” :
– Những yếu tố đối lập:
+ những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít” bẩn thỉu > < những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền”, chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do
+ chiến tranh vui tươi, vinh dự đột ngột > < đột ngột xa lìa vợ con, phơi thây trên các bãi chiến trường
+ cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi > < xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái
– Hình ảnh mang tính biểu tượng cao :
+ bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng
+ lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế, lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy
+ khạc ra từng miếng phổi
-Giọng điệu khi mỉa mai châm biếm sâu cay, khi xót thương
Tác dụng: Thuyết phục người đọc đồng cảm với suy nghĩ của mình, căm thù sự độc ác và tráo trở của bọn thực dân, cảm thương cho số phận của nhân dân ta.
Câu 2 (trang 97 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
– Nỗi buồn trước thực trạng học tủ, học vẹt của học sinh
– Sự bức xúc, trăn trở trước tình trạng sự học của nước nhà.
Đoạn trích không chỉ thuyết phục lí trí mà còn rất gợi cảm:
+ Giọng băn khoăn, day dứt .
+Những câu văn được viết dưới dạng của những câu hỏi tu từ, mang tính chất bộc lộ thái độ và thể hiện nỗi đau của tác giả một cách kín đáo : “Nói làm sao cho”, “Không có lí do gì phải nhấm bút…”, “Sao không có một “hãng” nào đó in ra”.
+Những từ ngữ thể hiện thái độ, tình cảm được sử dụng nhiều: nỗi khổ tâm, đeo một cái “nghiệp”, năm trời, không có lí do gì, như con vẹt, việc gì còn phải lôi thôi, bắt trẻ em ngày ngày phải đến trường
Câu 3 (trang 98 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
Chúng ta không nên học vẹt học tủ. Học là quá trình lĩnh hội và nắm bắt kiến thức. Nếu học tủ, học vẹt chung ta chỉ lưu giữ được kiến thức trong một khoảng thời gian rất ngắn rồi mau chóng lãng quên. Thật sự quan ngại về hiện tượng học tủ, học vẹt trong trường học hiện nay. Học sinh chỉ học để đối phó, để trả bài cho giáo viên. Khi học vẹt, các em không hiểu bản chất vấn đề thì làm sao có thể ghi nhớ lâu kiến thức, làm sao có kết quả tốt trong học tập? Học vẹt, học tủ chính là đang tự lãng phí thời gian học tập của mình.
Soạn bài Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận (ngắn nhất)
I. Kiến thức cơ bản
Câu 1: Tìm hiểu văn bản “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” chúng ta thấy:
a.
– Nhiều từ ngữ, câu biểu cảm:
+ Không chúng ta hi sinh … nô lệ.
+ Dù phải gian lao kháng chiến … về dân tộc ta!
+ Việt Nam độc lập thống nhất muôn năm!
– Câu văn (cảm thán):
+ Hỡi đồng bào toàn quốc!
+ Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
+ Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Cách dùng từ ngữ của văn bản ” Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh và “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn giống nhau ở việc sử dụng nhiều từ ngữ và câu văn có giá trị biểu cảm.
b. Song hai văn bản này không phải là những bài văn biểu cảm mà là văn bản nghị luận do mục đích của người viết (kêu gọi tướng sĩ, đồng bào đứng lên đánh giặc, cứu nước nên phải dùng những phương thức nghị luận để thuyết phục người nghe).
c. Các câu cột 2 hay hơn các câu cột 1 vì có chứa những từ ngữ biểu cảm, câu cảm thán làm cho câu văn giàu hình ảnh, sinh động, gây ấn tượng cho người đọc người nghe.
Câu 2: Để phát huy hết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn bản nghị luận thì:
– Phải thật sự có cảm xúc trước những điều mình viết (nói).
– Phải biết diễn tả cảm xúc đó bằng những từ ngữ, những câu văn có sức truyền cảm.
– Cảm xúc cần phải diễn tả chân thực và không được phá vỡ mạch nghị luận của bài văn. => ý kiến ở phần (c) là không chính xác.
II. Luyện tập
Câu 1: Những yếu tố biểu cảm trong phần I – Chiến tranh và “Người bản xứ” được thể hiện trong hệ thống các từ ngữ đối lập nhau, hoặc mang tính chất mỉa mai, châm biếm.
– Những yếu tố đối lập:
+ Những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít” bẩn thỉu >< những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền”, chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do
+ Chiến tranh vui tươi, vinh dự đột ngột >< đột ngột xa lìa vợ con, phơi thây trên các bãi chiến trường
+ Cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi >< xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái
– Giọng điệu châm biếm, mỉa mai:
+ Bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng
+ Lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế, lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy
+ Khạc ra từng miếng phổi
Những yếu tố biểu cảm đặc sắc đã làm tính mỉa mai, trào phúng của bài viết mạnh mẽ hơn và vì thế, làm tăng sức tác động và sự thuyết phục đối với người đọc, người nghe, giúp cho người đọc thấy rõ được bộ mặt thâm độc, giả nhân giả nghĩa cũng như âm mưu quỷ quyệt của thực dân Pháp trong việc sử dụng người dân thuộc địa để làm bia đỡ đạn cho chúng trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Câu 2:
– Đoạn trích đã thể hiện:
+ Nỗi buồn của tác giả – một nhà giáo tâm huyết với nghề dạy học – trước tình trạng học tủ, học vẹt của học sinh.
+ Những dằn vặt, trăn trở của một nhà giáo trước một thực tế đáng buồn diễn ra trong đời sống giáo dục nước nhà trước đây.
+ Tình cảm ấy thể hiện:
+ Từ ngữ bộc lộ cảm xúc: nỗi khổ tâm, nói làm sao, …
+ Câu văn thể hiện nỗi buồn, thái độ bất bình: “Sự học mà đã hạ xuống là học “tủ” thì chúng tôi cũng không còn cần làm việc cùng các bạn nữa”.
+ Câu văn mang giọng điệu mỉa mai: “Sao không có một “hang” nào đó …”
Câu 3:
– Về lí lẽ: Giải thích thế nào là học vẹt, học tủ? Việc học vẹt, học tủ dẫn đến hậu quả gì đối với mỗi người nói riêng và xã hội nói chung?
– Về yếu tố biểu cảm: Cần bày tỏ tình cảm đáng tiếc cho lối học vô bổ, không có tác dụng mở mang trí tuệ, trau dồi kiến thức (nếu là học vẹt) và lối học cầu may (nếu là học tủ).
Tham khảo:
Chúng ta không nên học vẹt và học tủ. Vì đây không phải là lối học đúng đắn. Nó mang lại hiệu quả kém cho người đọc. Học vẹt là học thuộc làu làu không suy nghĩ. Học tủ là chỉ học một vài bài dựa trên may, rủi mà thành công. Học vẹt, học tủ đem lại cho người đọc sự thiếu sót trong kiến thức, sự nghèo nàn trong học vấn. Người hay học vẹt, học tủ luôn thua sút các bạn. Sau này khi ra trường, họ sẽ không có kiến thức để góp phần xây dựng đời sống xã hội. Vì vậy, ngay từ bây giờ người học sinh phải tránh học vẹt và học tủ.
Soạn bài Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận (cực ngắn)
A. Soạn bài Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận (ngắn nhất)
I.Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận
Câu 1 :
Tìm hiểu văn bản “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” chúng ta thấy:
a.
– Nhiều từ ngữ, câu biểu cảm:
+ Không chúng ta hi sinh … nô lệ.
+ Dù phải gian lao kháng chiến … về dân tộc ta!
+ Việt Nam độc lập thống nhất muôn năm!
– Câu văn (cảm thán):
+ Hỡi đồng bào toàn quốc!
+ Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
+ Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Cách dùng từ ngữ của văn bản ” Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh và “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn giống nhau ở việc sử dụng nhiều từ ngữ và câu văn có giá trị biểu cảm.
b. Song hai văn bản này không phải là những bài văn biểu cảm mà là văn bản nghị luận do mục đích của người viết (kêu gọi tướng sĩ, đồng bào đứng lên đánh giặc, cứu nước nên phải dùng những phương thức nghị luận để thuyết phục người nghe). Yếu tố biểu cảm chỉ có vai trò phù trợ, giúp cho bài nghị luận hay hơn.
c. Các câu cột 2 có sức truyền cảm hơn các câu cột 1 vì có chứa những từ ngữ biểu cảm, câu cảm thán làm cho câu văn giàu hình ảnh, sinh động, gây ấn tượng cho người đọc người nghe.
Câu 2 :
Để phát huy hết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn bản nghị luận thì:
– Phải thật sự có cảm xúc trước những điều mình viết (nói).
– Phải biết diễn tả cảm xúc đó bằng những từ ngữ, những câu văn có sức truyền cảm.
– Cảm xúc cần phải diễn tả chân thực và không được phá vỡ mạch nghị luận của bài văn.
– Biểu cảm chỉ có giá trị khi đó là những rung động, những xúc cảm thực sự mà không phải là sự giả dối, sự đưa đẩy bóng bẩy bằng ngôn từ.
⇒ ý kiến ở phần (c) là không chính xác.
II.Luyện tập
Câu 1 :
Những yếu tố biểu cảm trong phần I – Chiến tranh và “Người bản xứ” được thể hiện trong hệ thống các từ ngữ đối lập mang tính chất mỉa mai, châm biếm:
– Những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An – nam – mít” bẩn thỉu >< những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền”, chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do.
– Chiến tranh vui tươi, vinh dự đột ngột >< đột ngột xa lìa vợ, phơi thây trên các bãi chiến trường.
-Cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi >< xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái.
– Khạc ra từng miếng phổi.
– Bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng .
→ Lời mỉa mai thể hiện thái độ khinh bỉ sâu sắc đối với giọng điệu tuyên truyền của bọn thực dân, và cả sự chế nhạo, cười cợt. Yếu tố biểu cảm đã tạo hiệu quả về tiếng cười châm biếm sâu cay.
Câu 2 :
– Đoạn trích đã thể hiện:
+ Nỗi buồn của tác giả – một nhà giáo tâm huyết với nghề dạy học – trước tình trạng học tủ, học vẹt của học sinh.
+ Những dằn vặt, trăn trở của một nhà giáo trước một thực tế đáng buồn diễn ra trong đời sống giáo dục nước nhà trước đây.
– Tình cảm ấy thể hiện:
+ Từ ngữ bộc lộ cảm xúc: nỗi khổ tâm, nói làm sao cho…,không có lí do gì phải nhấm bút …
+ Câu văn thể hiện nỗi buồn, thái độ bất bình: “Sự học mà đã hạ xuống là học “tủ” thì chúng tôi cũng không còn cần làm việc cùng các bạn nữa”.
+ Câu văn mang giọng điệu mỉa mai: “Sao không có một “hang” nào đó …”.
Câu 3 :
Đoạn văn tham khảo:
Học tập là một quá trình tích lũy và tiếp nhận kiến thức một cách lâu dài, vì thế chúng ta không nên học vẹt và học tủ. Học vẹt, học tủ là cách học chay, học thuộc lòng không khoa học. Đây là một cách học đối phó, thụ động và không hiểu được bản chất của tri thức. Nhiều học sinh cố gắng nhét kiến thức vào đầu trong khi mình không hiểu rõ hay phó mặc tương lai của mình khi chỉ dựa vào vận may rủi. Đây là một thực trạng đáng buồn khiến cho học sinh không có mục đích học tập đúng đắn và tạo lỗ hỏng kiến thức. Học vẹt, học tủ là các học rất nguy hại. Chính vì vậy mà mỗi chúng ta hãy nhận thức tầm quan trọng của việc học và tìm cho mình con đường đi đúng đắn trong tương lai.
B. Kiến thức cơ bản
– Văn nghị luận rất cần yếu tố biểu cảm. Yếu tố biểu cảm giúp cho văn nghị luận có hiệu quả thuyết phục lớn hơn, vì nó tác động mạnh mẽ tới tình cảm của người đọc (người nghe).
– Để bài văn nghị luận có sức biểu cảm cao, người làm văn phải thật sự có cảm xúc trước những điều mình viết (nói) và phải biết diễn tả cảm xúc đó bằng những từ ngữ, những câu văn có sức truyền cảm. Sự diễn tả cảm xúc cần phải chân thực và không được phá vỡ mạch lạc nghị luận của bài văn.
✅ Giải bài tập sách giáo khoa Ngữ văn 8 ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐️
Mọi chi tiết liên hệ với chúng tôi :
TRUNG TÂM GIA SƯ TÂM TÀI ĐỨC
Các số điện thoại tư vấn cho Phụ Huynh :
Điện Thoại : 091 62 65 673 hoặc 01634 136 810
Các số điện thoại tư vấn cho Gia sư :
Điện thoại : 0902 968 024 hoặc 0908 290 601
Leave a Reply