Thuế máu

5/5 - (1 vote)

Soạn bài Thuế máu (siêu ngắn)

Tóm tắt

I. Chiến tranh và người bản xứ

Trước 1914, chúng coi họ là những tên da đen bẩn thỉu. Chiến tranh nổ ra, họ trở thành “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”. Nhưng họ đã phải trả một cái giá quá đắt, cả những người ra trận và hậu phương phải bỏ mạng vô kể.

II. Chế độ lính tình nguyện

Ngoài thuế, sưu, …nhân dân Đông Dương còn phải chịu thêm vạ mộ lính. Chế độ ấy được tiến hành bằng cách nào không biết, chỉ cần trong thời gian nhất định phải nộp cho đủ một số lính nhất định. Những người bị bắt, tìm đủ mọi cách để trốn.

III. Kết quả của sự hi sinh

Khi chiến tranh kết thúc, cả người da đen lẫn chúng ta trở lại “giống người bẩn thỉu”. Bọn chúng lột hết của cải của họ, đánh đập, hành hạ một cách dã man trong khi thương binh người Pháp được đối đãi tử tế.

Đọc hiểu văn bản

Câu 1 (trang 91 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):

Nhận xét về cách đặt tên chương, tên phần trong văn bản:

– Cách đặt tên chương “Thuế máu”:

 + Thứ thuế bóc lột xương máu, tính mạng con người

 + Gợi số phận thảm thương của người dân thuộc địa và tội ác man rợ của thực dân Pháp.

 + Cho thấy sự phẫn nộ của tác giả đối với bọn thực dân, niềm thương xót với nhân dân thuộc địa.

 + Tạo ấn tượng mạnh và sự tò mò cho độc giả

– Cách đặt tên chương: Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương gợi lên quá trình lừa bịp, bóc lột đến cùng kiệt thuế máu của bọn thực dân cai trị.

Câu 2 (trang 91 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):

– Thái độ cai trị của bọn thực dân trước và khi xảy ra chiến tranh:

 + Trước chiến tranh: Người dân chỉ là những tên da đen, những tên “An-nam-mít bẩn thỉu”, chỉ biết kéo xe tay, ăn đòn của quan cai trị.

 + Khi chiến tranh nổ ra: họ thành ” con yêu”, người “bạn hiền” của quan phụ mẫu, quan toàn quyền lớn bé, được trao cho những danh xưng cao quý.

– Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa được miêu tả: Trả giá đắt

 + Đột ngột xa lìa vợ con, quê hương.

 + Bỏ mạng, phơi thây trên bãi chiến trường châu Âu: Lấy máu tưới vòng nguyệt quế, lấy xương chạm nên những chiếc gậy của ngài chống chế…

 + Hậu phương kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm

 + Bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp, tám vạn người không thể trở về.

Câu 3 (trang 91 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):

– Các thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân:

    + Tiến hành các cuộc vây bắt lớn người dân đi lính

    + Lợi dụng việc bắt lính để tham nhũng, vòi vĩnh

    + Đánh đập dã man nếu người dân chống đối

    + Bọn thực dân dựng lên màn kịch rêu rao về chế độ ” tình nguyện” đi lính.

– Người dân thuộc địa không tình nguyện như lời lẽ bọn cầm quyền:

    + Họ tự tìm cách làm cho mình bị nhiễm những căn bệnh nặng nhất để không phải đi lính.

    + Họ bị xiềng xích, bắt bớ, tống giam và bị áp tải xuống tàu.

Câu 4 (trang 92 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):

– Kết quả sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh:

    + Những lời tình tứ của những nhà cầm quyền bỗng dưng im bặt

    + Họ trở về là “giống người bẩn thỉu” như trước chiến tranh

    + Họ bị lột hết của cải, bị ngược đãi, đánh đập dã man

    + Họ phải hi sinh vô nghĩa bởi một chế độ không biết đến chính nghĩa và công lí.

⇒ Chính quyền thực dân đã đối xử với họ vô cùng bất công, tàn nhẫn, dã man.

Câu 5 (trang 92 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):

Bố cục của các phần trong chương được kết cấu theo:

    + Trình tự thời gian: trước, trong, và sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

⇒ Phơi bày được toàn bộ tội ác cũng như sự trơ trẽn, lật lọng của chính quyền thực dân và khắc họa được nỗi đau của nhân dân ta.

– Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo của tác giả thể hiện chủ yếu qua:

    + Đưa vào những hình ảnh chân thực phản ánh chính xác thực trạng, có sức tố cáo mạnh mẽ.

    + Ngôn từ của tác giả sâu sắc khi châm biếm, đả kích chính sách và giọng điệu lừa bịp của bọn thực dân: ngôn ngữ có sức gợi hình.

    + Dùng câu hỏi tu từ với mục đích đập tan luận điệu xảo trá đến trơ trẽn của chính quyền Đông Dương.

    + Sử dụng rất thành công giọng điệu giễu nhại, nghệ thuật phản bác.

Câu 6 (trang 92 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):

– Yếu tố biểu cảm trong đoạn trích

    + Cách đặt tên chương, tên phần

    + Hình ảnh mang tính biểu tượng cao “những miền hoang vu mộng mơ”, “lấy máu mình tưới vòng nguyệt quế”…

    + Giọng điệu khi châm biếm sâu cay, khi đồng cảm, xót thương

Soạn bài Thuế máu (ngắn nhất)

Soạn bài Thuế máu (Trích Bản án chế độ thực dân Pháp – Nguyễn Ái Quốc)

Tóm tắt

I. Chiến tranh và người bản xứ

Trước 1914, chúng coi họ là những tên da đen bẩn thỉu. Chiến tranh nổ ra, họ trở thành “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”. Nhưng họ đã phải trả một cái giá quá đắt, cả những người ra trận và hậu phương phải bỏ mạng vô kể.

II. Chế độ lính tình nguyện

Ngoài thuế, sưu, …nhân dân Đông Dương còn phải chịu thêm vạ mộ lính. Chế độ ấy được tiến hành bằng cách nào không biết, chỉ cần trong thời gian nhất định phải nộp cho đủ một số lính nhất định. Những người bị bắt, tìm đủ mọi cách để trốn.

III. Kết quả của sự hi sinh

Khi chiến tranh kết thúc, cả người da đen lẫn chúng ta trở lại “giống người bẩn thỉu”. Bọn chúng lột hết của cải của họ, đánh đập, hành hạ một cách dã man trong khi thương binh người Pháp được đối đãi tử tế.

Bố cục: 3 phần

– phần 1: Chiến tranh và “người bản xứ”

– phần 2: Chế độ lính tình nguyện

– phần 3: Kết quả của sự hi sinh

Câu 1: Về cách đặt tên chương, tên các phần của tác giả.

– Cái tên “thuế máu” đã vạch trần tính chất dãn man của một loại thuế đặc biệt mà thực dân Pháp đánh vào dân thuộc địa: Thuế máu. Nó gợi lên số phận thảm thương của người dân thuộc địa, bao hàm lòng căm phẫn, thái độ mỉa mai đối với tội ác ghê tớm của chính quyền thực dân.

– Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương gợi lên quá trình lừa bịp, bóc lột đến cùng kiệt thuế máu của bọn thực dân cai trị. Từ “Chiến tranh và người bản xứ” đến “Chế độ lính tình nguyện” rồi chỉ ra “Kết qua của sự hi sinh”, các phần nối tiếp như thế … chứng tỏ tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, sự phê phán triệt để của Nguyễn Ái Quốc.

Câu 2:

a) Thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa:

– Trước chiến tranh, họ bị xem là giống người hạ đẳng, bị đối xử và đánh đập như súc vật.

– Khi cuộc chiến tranh bùng bổ, lập tức họ được các quan cai trị tâng bốc vỗ về, được phong cho những danh hiệu cao quý (trở thành những đứa con yêu, những người bạn hiền).

→ Cho thấy thủ đoạn lừa bịp bị ổi của chính quyền thực dân để bắt đầu biên họ thành vật hi sinh.

b) Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa:

– Họ phải đột ngột xa gia đình, chối thây bỏ xác.

– Lấy máu mình tưới vòng nguyệt quế của chỉ huy.

– Lấy xương chạm lên gậy của các ngài thống chế.

– Những người ở hậu phương phục vụ chiến tranh đến kiệt sức và chết.

→ Số phận thảm thương.

Câu 3:

a. Các thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân:

– Tiến hành lùng ráp, vây bắt và cưỡng bức người ta phải đi lính.

– Lợi dụng chuyện bắt lính mà dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu.

– Sẵn sàng trói, xích, nhốt người ta như nhốt súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu như có chống đối.

b. Chiêu bài “tình nguyện” hay chính là những trò bịp bợm của bọn cầm quyền.

– Trong khi làm những điều trên, chính quyền thực dân vẫn rêu rao về lòng tự nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Lời tuyên bố trịnh trọng của phủ toàn quyền Đông Dương chỉ càng bộc lộ sự lừa bịp trơ trẽn.

– Không hề có sự tình nguyện hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Tác phẩm đã kể ra sự thực: người dân thuộc địa hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí họ tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất để khỏi phải đi lính.

Câu 4: Kết quả của sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh:

– Lời tuyên bố của thực dân im bặt.

– Người bản xứ trở lại “giống người hèn hạ”.

– Họ bị tước đoạt hết của cải, bị đánh đập vô cớ, bị đối xử như với súc vật.

– Họ trở về trị trí hèn hạ ban đầu.

– Bỉ ổi hơn nữa, chính quyền thực dân còn đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi – cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện cho thương binh người Pháp và vợ con của sĩ tử người Pháp.

Câu 5: Nhận xét về trình tự bố cục các phần trong chương, về nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả.

a. Ba phần của chương Thuế máu được bố cục theo trình tự thời gian: trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới 1914 – 1918. Với cách sắp xếp này bộ mặt giả nhân giả nghĩa trơ trẽn, bản thuế máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa được miêu tả một cách cụ thể, sinh động.

b. Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện chủ yếu qua các phương diện sau:

– Xây dựng một hệ thống hình ảnh sinh động, giàu tình cảm và sức mạnh tố cáo.

– Giọng điệu trào phúng đặc sắc.

Câu 6: Nhận xét về yếu tố biểu cảm trong đoạn trích.

– Các hình ảnh được xây dựng mang tính biểu cảm cao, làm toát lên số phận đáng thương của người dân thuộc địa và sự bỉ ổi của bọn thực dân.

– Giọng điệu của tác phẩm cũng là giọng của sự căm phẫn và niềm xót thương.

– Trong đoạn trích này, yếu tố tự sự và yếu tố biểu cảm được kết hợp chặt chẽ, hài hoà.

Soạn bài Thuế máu (cực ngắn)

A. Soạn bài Thuế máu (ngắn nhất)

Câu 1 :

Về cách đặt tên chương, tên các phần của tác giả.

– Văn bản được đặt tên là thuế máu, trùng với tên chương 1. Cách đặt tên chương đã vạch trần tính chất dã man của một loại thuế đặc biệt mà thực dân Pháp đánh vào dân thuộc địa: Thuế máu.

– Tên các phần trong văn bản cũng góp phần tố cáo bộ mặt của thực dân Pháp:

   + Phần 1 chỉ ra rõ sự giả nhân giả nghĩa của thực dân Pháp bắt dân thuộc địa làm bia đỡ đạn và chết cho bọn tướng tá thực dân.

   + Phần 2 tố cáo cái gọi là tình nguyện của những người dân thuộc địa.

   + Phần 3 nói về kết quả của sự hi sinh, vạch trần những lời lẽ lừa bịp, giả nhân giả nghĩa của bọn thống trị.

Câu 2 :

a.Thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa:

   – Trước chiến tranh, người dân thuộc địa chỉ là những kẻ “bẩn thỉu”, giỏi lắm chỉ là phu kéo xe và ăn đòn.

   – Khi cuộc chiến tranh bùng bổ, lập tức họ trở thành những đứa con yêu, những người bạn hiền, “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”.

→ Cho thấy thủ đoạn lừa bịp bị ổi của chính quyền thực dân.

b) Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa:

   – Họ phải lìa bỏ quê hương, phải phây thây trên bãi chiến trường.

   – Lấy máu mình tưới vòng nguyệt quế của chỉ huy.

   – Lấy xương chạm lên gậy của các ngài thống chế.

   – Những người ở hậu phương phục vụ chiến tranh đến kiệt sức và chết.

Câu 3 :

a. Các thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân:

   – Tiến hành vây ráp, bắt giam và cưỡng bức phải đi lính.

   – Lợi dụng chuyện bắt lính để tham nhũng.

   – Bắt con nhà nghèo, tống tiền con nhà giàu.

   – Rêu rao là người dân tình nguyện “tập nập đầu quân”.

b. Chiêu bài “tình nguyện” hay chính là những trò bịp bợm của bọn cầm quyền. Thực chất người dân không hề tình nguyện như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Họ tìm đủ mọi cách để không phải bị bắt đi lính. Họ bị xích tay điệu về tỉnh lị; họ bị nhốt và áp tải xuống tàu, họ biểu tình, bạo động.

Câu 4 :

Kết quả của sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh:

   – Người bản xứ trở lại “giống người hèn hạ”, “giống người bẩn thỉu”.

   – Họ bị tước đoạt hết của cải, bị đánh đập vô cớ, bị đối xử như với súc vật.

   – Họ trở về trị trí hèn hạ ban đầu và không được hưởng một chút công lí và chính nghĩa nào.

Câu 5 :

Nhận xét về trình tự bố cục các phần trong chương, về nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả.

a. Ba phần của chương Thuế máu được bố cục theo trình tự thời gian: trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới 1914 – 1918. Với cách sắp xếp này bộ mặt giả nhân giả nghĩa trơ trẽn, bản thuế máu được phơi bày toàn diện, triệt để đồng thời thể hiện tình cảnh đáng thương của người dân thuộc địa.

b. Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện chủ yếu qua các phương diện sau:

   -Xây dựng một hệ thống hình ảnh sinh động, giàu tình cảm và sức mạnh tố cáo.

   – Giọng điệu trào phúng đặc sắc.

Câu 6 :

Nhận xét về yếu tố biểu cảm trong đoạn trích.

   – Các hình ảnh được xây dựng mang tính biểu cảm cao, làm toát lên số phận đáng thương của người dân thuộc địa và sự bỉ ổi của bọn thực dân.

   – Thể hiện trong thái độ mỉa mai, châm biếm, đả kích kẻ thù.

   – Giọng điệu của tác phẩm cũng là giọng của sự căm phẫn và niềm xót thương.

   – Yếu tố biểu cảm làm cho bài văn có sức tố cáo mạnh mẽ, thuyết phục.

B. Tác giả

*Tiểu sử

– Hồ Chí Minh (19/05/1889 – 02/09/1969) tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung.

– Quê quán: Kim Liên – Nam Đàn – Nghệ An.

– Gia đình: nhà Nho nghèo, cha là Nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan.

– Quá trình hoạt động cách mạng:

+ Năm 1911, ra đi tìm đường cứu nước.

+ Hoạt động cách mạng ở nhiều nước: Pháp, Trung Quốc, Thái Lan…

+ Ngày 3 – 2 – 1930, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

+ Năm 1941, trở về nước, lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước.

+ Tháng 8 – 1942, sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế, bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam đến tháng 9 – 1943.

+ Ra tù, Người trở về nước, lãnh đạo phong trào cách mạng, tiến tới tổng khởi nghĩa tháng 8 – 1945.

+ Ngày 2 – 9 – 1945, đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giữ chức vụ Chủ tịch nước.

+ Lãnh đạo nhân dân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ.

ð Là vị lãnh tụ tài ba, vĩ đại, danh nhân văn hóa thế giới. 

*Sự nghiệp văn học

– Quan điểm sáng tác:

+ Coi văn học là một vũ khí chiến đấu phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.

+ Luôn chú trọng tính chân thực và tính dân tộc.

+ Luôn chú ý đến mục đích và đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm.

– Di sản văn học:

+ Văn chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Tuyên ngôn độc lập(1945), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quý hơn độc lập tự do (1966)…

+ Truyện và kí: Pari(1922), Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Con người biết mùi hun khói (1922), Vi hành (1923), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925), Nhật kí chìm tàu (1931), Vừa đi đường vừa kể chuyện (1963)…

+ Thơ ca: Nhật kí trong tù (viết trong thời gian bị giam cầm trong nhà lao Tưởng Giới Thạch từ 1942 – 1943), chùm thơ viết ở Việt Bắc từ 1941 – 1945.

ð Di sản văn học lớn lao về tầm vóc, phong phú về thể loại và đa dạng về phong cách.

– Phong cách nghệ thuật:

+ Thống nhất:

  • Về mục đích sáng tác, quan điểm sáng tác, nguyên tắc sáng tác.
  • Về cách viết ngắn gọn.

+ Đa dạng:

  • Văn chính luận: ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng thuyết phục, giàu tính luận chiến, kết hợp nhuần nhuyễn mạch luận lí với mạch cảm xúc, giọng điệu uyển chuyển.
  • Truyện và kí hiện đại, giàu tính chiến đấu, nghệ thuật trào phúng sắc bén, nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thúy, sâu cay.
  • Thơ ca: thơ tuyên truyền cách mạng mộc mạc, giản dị, dễ nhớ, dễ thuộc; thơ nghệ thuật kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển với yếu tố hiện đại, cô đọng, súc tích. 

C. Tác phẩm

– Hoàn cảnh sáng tác: Văn bản được viết bằng tiếng Pháp vào khoảng những năm 1921 – 1925, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1925 tại Pháp, ở Việt Nam vào năm 1946.

– Xuất xứ: Đoạn trích nằm trong chương 1 (Thuế máu) của Bản án chế độ thực dân Pháp.

– Thể loại: Văn bản chính luận.

– Phương thức biểu đạt: Nghị luận.

– Giá trị nội dung: Đoạn trích tố cáo bộ mặt giả dối, thủ đoạn của chính quyền thực dân Pháp trong việc biến người dân thuộc địa thành vật hy sinh cho lợi ích của chúng trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa tàn khốc.

– Giá trị nghệ thuật:

+ Nghệ thuật đả kích, châm biếm sắc sảo, tài tình.

+ Lựa chọn và xây dựng hình ảnh mang ý nghĩa tố cáo.

+ Giọng điệu trào phúng đặc sắc.

+ Ngôn từ mang màu sắc châm biếm.

+ Thủ pháp tương phản, đối lập.

Tóm tắt Thuế máu

Tổng hợp tóm tắt tác phẩm Thuế máu Ngữ văn lớp 8 gồm các bài tóm tắt cực hay, ngắn gọn nhất giúp học sinh biết cách tóm tắt tác phẩm Thuế máu từ đó nắm được những nét chính về nội dung của văn bản Thuế máu trong chương trình Ngữ văn lớp 8.

Tóm tắt Thuế máu (mẫu 1)

Trước chiến tranh chúng ta bị xem là giống người hèn hạ, bị đối xử, đánh đập như súc vật, không được coi là người. Chiến tranh xãy ra họ biến chúng ta thành vật hy sinh khiến nhiều người bị thương và bỏ mạng nơi chiến trường. Chúng dùng nhiều thủ đoạn bắt lính như: lùng ráp, vây bắt, cưỡng bức, lợi dụng, đàn áp dã man. Khi chiến tranh kết thúc chúng ta lại trở về thân phận nô lệ.

Thuế máu: thứ thuế đóng bằng xương máu, tính mệnh con người. Đó là thứ thuế tàn bạo, dã man nhất. Cách gọi của Nguyễn Ái Quốc gợi lên số phận thảm thương của người dân thuộc địa và lên án tội ác đáng ghê tởm của chính quyền thực dân.

Tóm tắt Thuế máu (mẫu 2)

Vào những năm trước khi chiến tranh thế giới xảy ra, nhân dân ta bị thực dân Pháp coi như những tên da đen bẩn thỉu, chỉ biết kéo xe và ăn đòn. Còn khi chiến tranh xảy ra thì chúng bắt dân ta đi làm bia đỡ đạn cho chúng. Kết quả khiến cho dân ta rất nhiều người bị thương, bỏ mạng nơi chiến trường. Chúng gọi đây là chế độ lính tình nguyên nhưng thực chất chúng lại dùng đủ mọi chiêu trò, mánh khóe, thậm chí là bắt trói đánh đập dân ta đi lính. Khi chiến tranh kết thúc, chúng lại quay về với cái sự tàn ác như ban đầu, đối xử dân ta như súc vật, lột đồ dân ta đã tự bỏ tiền ra mua. Qua tác phẩm này, tác giả muốn nhân dân ở Pháp cũng như nhân dân trên toàn thế giới biết được bộ mặt giả nhân giả đức của thực dân Pháp.

Tóm tắt Thuế máu (mẫu 3)

Đoạn trích “Thuế máu” là lời tố cáo đanh thép nhất đối với chính quyền Pháp thuộc, là đòn tiến công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân. Tác phẩm là một bức tranh khốn cùng, tủi nhục của người dân nô lệ, không chỉ riêng ở nước ta mà còn ở các thuộc địa trên toàn thế giới. Tố cáo chế độ cai trị cũng có nghĩa là vạch ra con đường đấu tranh để giải phóng đất nước, giành quyền độc lập. Nguyễn Ái Quốc đã giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, chỉ ra cho các dân tộc bị nô lệ trên khắp thế giới một chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”

Tóm tắt Thuế máu (mẫu 4)

Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc được viết ra nhằm lên án chế độ thực dân lừa lọc dối trá trên mọi lĩnh vực đối với đất nước ta thời bấy giờ. Chúng biến nhân dân ta thành vật hi sinh trên chiến trường,biến nhân dân ta thành nô lệ để chúng áp bức bóc lột.

Tóm tắt Thuế máu (mẫu 5)

Phần 1 chỉ rõ sự giả nhân giả nghĩa của thực dân Pháp bắt dân thuộc địa làm bia đỡ đạn và chết thay cho bọn tướng tá thực dân. Phần 2 tố cáo cái gọi là tình nguyện của những người dân thuộc địa. Phần 3 nói về kết quả của sự hi sinh, vạch trần những lời lẽ lừa bịp, giả nhân giả nghĩa của bọn thống trị. Cả ba phần làm nổi bật tính chất dã man của Thuế máu đánh vào dân thuộc địa.

…………………

…………………

…………………

Sơ đồ tư duy bài Thuế máu

Nhằm mục đích giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa được kiến thức, nội dung các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 8, chúng tôi biên soạn bài viết Sơ đồ tư duy bài Thuế máu dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ các nội dung như tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, bố cục, dàn ý phân tích, bài văn mẫu phân tích, …. Hi vọng qua Sơ đồ tư duy bài Thuế máu sẽ giúp học sinh nắm được nội dung cơ bản của bài Thuế máu.

A. Sơ đồ tư duy bài Thuế máu

B. Tìm hiểu bài Thuế máu

I. Tác giả

Nguyễn Ái Quốc là tên gọi khác của Bác Hồ khi mới sang Pháp (Ngày 18/6/1919 nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu nước, Bác phổ biến cuốn “Yêu sách của nhân dân An Nam” gồm tám điểu và được viết bằng tiếng Pháp, ký tên Nguyễn Ái Quốc. Từ đó Người dùng tên Nguyễn Ái Quốc. 

 II. Tìm hiểu chung về tác phẩm

1.Hoàn cảnh sáng tác

Văn bản được viết bằng tiếng Pháp vào khoảng những năm 1921-1925, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1925 tại Pháp, ở Việt Nam vào năm 1946.

2.Xuất xứ

Chương I- Trích “Bản án chế độ thực dân Pháp”

3.Thể loại: Văn nghị luận

4.Bố cục

– Phần 1: Chiến tranh và “người bản xứ”

– Phần 2: Chế độ lính tình nguyện

– Phần 3: Kết quả của sự hi sinh

5. Giá trị nội dung

Đoạn trích tố cáo bộ mặt giả dối, thủ đoạn của chính quyền thực dân Pháp trong việc biến người dân thuộc địa thành vật hy sinh cho lợi ích của chúng trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa tàn khốc

6. Giá trị nghệ thuật

– Nghệ thuật đả kích, châm biếm sắc sảo, tài tình

– Lựa chọn và xây dựng hình ảnh mang ý nghĩa tố cáo

– Giọng điệu trào phúng đặc sắc

– Ngôn từ mang màu sắc châm biếm

– Thủ pháp tương phản, đối lập

III. Dàn ý bài phân tích tác phẩm

1. Chiến tranh và người bản xứ

* Thái độ của các quan cai trị thực dân Pháp đối với người dân bản địa

– Trước chiến tranh:

+ Gọi: tên da đen bẩn thỉu, những tên An-nam-mít bẩn thỉu

+ Chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn

⇒ Coi thường, nhục mạ, đánh đập tàn nhẫn

– Khi chiến tranh bùng nổ:

+ Gọi bằng các từ ngữ đẹp đẽ: con yêu, bạn hiền

+ Phong danh hiệu cao quý: Chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do

⇒ Tâng bốc, vỗ về, biến họ thành công cụ của chiến tranh

Nghệ thuật: Các từ trong dấu ngoặc kép hiểu theo nghĩa ngược lại⇒ Nhại lời của thực dân Pháp với giọng điệu mỉa mai, trào phúng

⇒ Thực dân Pháp: dối trá, lừa bịp, bỉ ổi

* Số phận của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa

– Những người đi lính:

+ Đột ngột xa gia đình, quê hương

+ Phơi thây trên các chiến trường…

+ Bỏ xác tại…miền hoang vu …,

+ Đưa thân… tàn sát, lấy máu… tưới, lấy xương hiến

⇒ Bị biến thành vật hi sinh trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa

– Người ở hậu phương:

+ làm kiệt sức, nhiễm khí độc, khạc ra từng miếng phổi

⇒ Bệnh tật, chết đau đớn

– Kết quả: 8 vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương

 Bằng việc đưa số liệu cụ thể ⇒ Tố cáo mạnh mẽ tội ác của giặc, gợi lòng căm thù, phẫn nộ.

⇒ Số phận thảm thương, bị lợi dụng, bị bóc lột “Thuế máu”

2. Chế độ lính tình nguyện

* Các thủ đoạn, mánh khóe của bọn thực dân

– Các thủ đoạn vũ lực, mánh khóe vô lí để bắt ép người dân Đông Dương đi lính và vơ vét của cải của họ:

 + Chúng mở cuộc lùng ráp, vây bắt và cưỡng chế bằng vũ lực để ép người dân đi lính

 + Chúng dùng mánh khóe trấn lột của cải của người dân bằng luận điệu: muốn không đi lính thì xì tiền ra.

 + Khi bị bắt, chúng trói, xích, đánh đập như súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu họ chống đối.

⇒ Vô nhân đạo, không từ một thủ đoạn tàn ác, coi mạng người như cỏ rác.

– Giọng điệu xảo trá, đáng khinh khi chúng nói “các bạn đã tấp nập đầu quân…; không ngần ngại rời bỏ quê hương…”.

* Phản ứng của người dân

– Tìm mọi cách để trốn thoát khỏi vòng vây của bọn thực dân

– Sẵn sàng làm cho mình nhiễm những căn bệnh nặng nhất để không phải đi nhưng cuối cùng vẫn bị chúng bóc lột, vơ vét không từ thủ đoạn.

⇒ Họ không hề tình nguyện như lời phủ toàn quyền Đông Dương đã công bố trước toàn thế giới.

⇒ Vạch trần thủ đoạn lừa bịp của chính sách mộ lính: cưỡng bức, bắt lính một cách dã man, tàn bạo.

3. Kết quả của sự hi sinh

– Chiến tranh kết thúc:

+ Những lời tuyên bố tình tứ bỗng dưng im bặt.

+ Những người bản xứ trở lại ”giống người hèn hạ”

⇒ Người bản xứ trở lại vị trí ban đầu

– Khi về:

+ Bị lột hết của cải; bị kiểm soát, đánh đập

+ Được chào đón bằng bài diễn văn: … thế là tốt… cút đi

⇒ Sự hi sinh không mang lại kết quả tốt đẹp mà bị tước đoạt của cải, đánh đập tàn bạo, đối xử như với súc vật.

– Chính quyền cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện cho thương binh, vợ con tử sĩ người Pháp nhằm vơ vét, đầu độc

⇒ Chính sách thâm hiểm, độc ác

⇒ Lời tố cáo thẳng thắn, quyết liệt của tác giả trước những tội ác của bọn thực dân, thái độ mỉa mai, châm biếm đến cực độ trước sựu gian xảo, bỉ ổi của chúng.

IV. Bài phân tích

Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, cũng là viên ngọc trong văn học Việt Nam hiện đại. Ngòi bút của Người ngoài về thiên nhiên, về cách mạng còn hướng tới, quan tâm nhưng số phận bất hạnh, những người cùng khổ phải chịu bất công và khổ đau. Một trong những bản án mà Bác đưa ra để tố cáo những tội ác của thực dân, đó chính là Thuế máu – chương một trong Bản án chế độ thực dân Pháp.

Bản án chế độ thực dân Pháp của lãnh tụ cách mạng Nguyễn Ái Quốc được viết bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Pa-ri năm 1925 và xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1946. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục có tựa đề Gửi thanh niên Việt Nam, nội dung tố cáo và kết án tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… đồng thời phản ánh tình cảnh tủi nhục khốn cùng của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới. Từ đó, bước đầu tác giả vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn để các dân tộc tự giải phóng, giành quyền độc lập.

Thuế máu là một cách đặt tên chương đầy ấn tượng, có sức biểu cảm, khơi gợi rất cao. Đây là một thứ thuế cực kì vô lí, một sự bóc lột tàn bạo, trắng trợn đến tận cùng sinh mạng của những người dân thuộc địa. Chiến tranh phi nghĩa đối với bọn đế quốc là một cách làm giàu nhanh nhất và bóc lột xương máu của những người dân thuộc địa mà chúng tự phong cái nghĩa vụ khai hoá, bảo hộ là con đường rẻ nhất. Đó là những cuộc chiến tranh mang lại lợi nhuận vổ cùng lớn. Bóc lột sức lực mồ hôi đã là một tội ác. Bóc lột xương máu lại là một tội ác lớn hơn. Bản chất độc ác ấy, lần đầu trên báo chí được phanh phui, bộ mặt của bọn thực dân hiện nguyên hình là những loài dã thú trong thời đại văn minh. Tính chất phản nhân loại ấy được lôi ra ánh sáng. Xương máu mà người dân thuộc địa phải trả cho các cuộc chiến tranh đế quốc thật la vô nghĩa. Sự lừa bịp của bọn thực dân không còn một thứ bình phong hay mĩ từ nào che giấu được.

Bài viết của Nguyễn Ái Quốc được chia thành ba phần. Đầu tiên là cái nhìn của tác giả về chiến tranh và người bản xứ. Trước những năm 1914, những người bản xứ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tân An- nam- mít. Trong mắt của những nhà cầm quyền, họ chỉ là giống người ngu dốt và hạ đẳng. Nhưng khi chiến tranh nổ ra, họ lập tức trở thành những đứa con yêu, những người bạn hiền của các quan cai trị, phụ mẫu nhân hậu. Họ được khoác lên cổ những danh hiệu cao quý và nhân hậu: chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do. Để trả giá cho cái danh dự đột ngột và hão huyền ấy, những người bản xứ phải đánh đổi bằng cái chết ở nơi đáy biển, vùng Ban- căng hoang vu, bên bờ sông Mác- nơ hay bãi lầy miền Săm-pa-nơ. Những kẻ không phải ra trận thì bị đầu độc trong những xưởng vũ khí giết người. Đó là những tội ác thực sự phía sau những danh từ mĩ miều kia. Giọng điệu châm biếm, mỉa mai bằng cách nhại lại những mĩ từ ấy đã vạch trần thủ đoạn lừa bịp, xảo trá, đáng ghê tởm trong quá trình khai hóa văn minh của chủ nghĩa thực dân. Việc sử dụng những con số cụ thể và biện pháp nói giảm, nói tránh khi nói đến sự mất mát làm nỗi đau ngày càng tăng lên. Dưới ách áp bức đó của bọn thực dân, số phận người dân thuộc địa rất bi thảm và đã được nhà văn miêu tả hết sức cụ thể bằng ngòi bút tài hoa của mình. Họ không được hưởng tí nào về quyền lợi đã thế họ còn phải đột ngột xa lìa vợ con, quê hương, phải làm việc cật lực trong những kho thuốc súng ghê tởm khạc ra từng tiếng phổi, họ phơi thây trên các chiến trường châu Âu, xuống tận đáy biển bảo vệ tổ quốc của loài thủy quái, bỏ xác ở những vùng miền hoang vu ở Ban-căng, lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế. Kết quả là tám vạn người không bao giờ thấy mặt trời trên quê hương mình nữa. Nghe đến đấy là tự hỏi tại sao, bọn thực dân rốt cuộc có quyền gì mà lại có thể quyết định sống chết của hàng vạn người dân vô tội như thế? Những người dân bản xứ rốt cuộc cũng chỉ là vật hi sinh cho bạn cai trị thực dân. Đó chính là kiếp khổ đau của thân phận những người nô lệ. Tác giả đã vạch trần bộ mặt bỉ ổi của chủ nghĩa thực dân phản ánh số phận thảm thương của người dân thuộc địa.

Sau đó tác giả đã chỉ ra thủ đoạn mánh khóe của những bọn thực dân. Bọn thực dân tiến hành những cuộc lùng soát lớn trên toàn cõi đông dương và đủ các ngón xoay sở tinh vi nhất để đòi tiền. Chúng tìm đến những người khỏe mạnh những người này có thân cô thế cô chỉ chịu chết chứ không kêu cứu vào đâu được. Còn đối với những con cái nhà giàu thì họ ép cho một là đi lính hai là xì tiền ra. Đối với những người bị bắt đi lính thì một là họ bỏ trốn hai là tự làm cho mình nhiễm phải những căn bệnh nặng để không phải đi bởi đi lính đối với họ còn đáng sợ hơn cả bệnh tật. Khi đó để giải thích cho vấn đề này thì giọng điệu của chính phủ toàn quyền cũng rất bịp bợm. Chúng dùng sự hứa hẹn để lừa phỉnh người lính như ban phẩm hàm cho người sống sót truy tặng cho người hi sinh hay dùng những lời lẽ tán dương như các bạn đã tấp nập đầu quân đã không ngần ngại rời bỏ quê hương. Tất cả chỉ là những lời nói bịp bợm lừa phỉnh khi mà thực tế chúng xích trói bắt nhốt và đương nhiên bạo động nổ ra. Đây chính là những lời lừa dối mị dân. Tác giả mỉa mai những luận điệu chua chát ấy bằng những câu hỏi tu từ đầy sức thuyết phục “Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính như thế tại sao có cảnh tốp thì bị xích tay điều về tỉnh tốp thì trước khi bị đưa xuống tàu bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn có cả lính gác canh lưỡi lê tuốt trần đạn lên nòng sẵn. Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn ở Biên Hòa và nhiều nơi khác nữa phải chăng là những cuộc biểu tình của sốt sắng đầu quân và không ngần ngại”. Bác đã lột trần bản chất tham lam và bạo tàn của chúng đối với người dân thuộc địa. Lập luận của Bác khiến cho toàn quyền Đông Dương cứng họng không thể trả lời.

Vậy thì, kết quả của sự hi sinh của người dân thuộc địa cho các cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy như thế nào? Bọn thực dân đã đối xử như thế nào đối với những người đã ra chiến trường thay họ? Kết quả sự hi sinh của người lính thuộc địa trong các cuộc chiến tranh và cách đối xử của chính quyền thực dân sau khi đã bóc lột xương máu họ đã được tác giả miêu tả bằng những hình ảnh, chỉ tiết tiêu biểu có sức tố cáo rất lớn: “Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyển nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nê-gơ-rô” lẫn người “An nam-mít” mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu”. Sau hi họ đã cống hiến xương máu của mình bảo vệ cho mẫu quốc thì lại bị chính mẫu quốc cướp nốt chút tài sản cuối cùng và bị đối xử tàn tệ. Khi trở về còn được chào đón bằng một bài diễn văn yêu nước- một thái độ xảo trá, trơ trẽn của chính quyền thực dân. Khi chiến tranh kết thúc, chính quyền thực dân đã phạm đến hai tội ác: vừa bóc lột xương máu của người dân thuộc địa, vừa cấp môn bài thẻ thuốc phiện cho thương binh và vợ tử sĩ để tiếp tục đầu độc cả một dân tộc và biến họ thành nạn nhân của cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”. Đó cũng chính là bộ mặt nham hiểm, bỉ ổi của chủ nghĩa thực dân. Nhà văn đã sử dụng hàng loạt câu nghi vấn để lột trần được bộ mặt vô nhân đạo, tráo trở, tàn nhẫn và bản chất lừa dối, nham hiểm, độc ác, phi nhân tính của thực dân Pháp.

Ba phần của chương Thuế máu được bố cục theo trình tự thời gian: trước, trong, và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Với cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân, giả nghĩa, bản chất tàn bạo của chính quyền thực dân xung quanh việc bóc lột thuế máu được phơi bày toàn diện và triệt để.

Với tư liệu phong phú xác thực giàu hình ảnh giá trị biểu cảm giọng điệu đanh thép ngòi bút trào phúng sắc sảo châm biếm mỉa mai làm tác phẩm như một lời tố cáo đanh thép nhất đối với chính quyền Pháp thuộc là đòn tấn công quyết liệt đối với chủ nghĩa thực dân. Đoạn trích cũng cho người đọc thấy được bộ mặt tàn ác nhẫn tâm cuồng thú của bọn thực dân khi dùng những người dân thuộc địa vô tội làm vật hi sinh cho chúng đồng thời cũng nói lên thân phận thảm hại nô lệ của những người dân An Nam. Bên cạnh đó tác phẩm cũng cho ta thấy tấm lòng thương cảm của Bác đối với thân phận những người dân và cũng khẳng định tài hoa khéo léo trong việc hành văn của Bác.

V. Một số lời bình về tác phẩm

1. Cuốn sách này (Bản án chế độ thực dân Pháp) là sản phẩm tổng hòa của tất cả các tri thức – chính trị, triết học, xã hội, lịch sử, văn học và kinh nghiệm thực tiễn – được thu, bồi bổ, phát triển trong quá trình đấu tranh đầy sóng gió của Người.

(Nguyễn Khánh Toàn, Lời giới thiệu cho tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp)

2. Bản án chế độ thực dân Pháp là một tác phẩm văn học mang tính khoa học chính xác, đanh thép, khách quan. Đó là những tài liệu lấy trong hồ sơ của bọn thống trị, đó là những con số, những bảng thống kê, những sự việc được báo chí tư sản thú nhận, tóm lại, những bằng chứng cụ thể, chỉ rõ tên tuổi nọn khai hóa đầu sỏ trong lịch sự nhục nhã của chế độ thực dân Pháp, với niên hiệu rành rọt, nơi chốn rõ ràng. Tác giả đã phân tích, tổng hợp những tài liệu, rút ra những kết luận khái quát, tạo thành một bản án kết tội hùng hồn và kịch liệt.

(Đỗ Đức Hiểu, Tạp chí văn học, số 4,1971)

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 91 sgk Ngữ văn 8 tập 2):

  – Văn bản được đặt cùng tên với tên chương I trong bài nhằm:

   + Vạch trần, tố cáo bản chất dã man của bọn thực dân Pháp khi bóc lột, đàn áp người dân bằng “Thuế máu”

   + Tình cảnh khốn cùng, số phận thảm thương của người dân thuộc địa.

   + Thái độ căm phẫn, mỉa mai, châm biếm của tác giả trước chính sách tàn độc của bọn thực dân.

  – Cách đặt tên các phần tương ứng và làm rõ tính dã man, bản chất “hút máu” của bọn thực dân:

   + Phần 1: Tố cáo sự giả nhân, giả nghĩa của thực dân khi bắt người dân thuộc địa làm nô lệ, bia đỡ đạn.

   + Phần 2: Vạch trần sự thật về chế độ lính tình nguyện mà thực dân đề ra.

   + Phần 3: Kết quả của sự hi sinh từ đó tố cáo những lời lẽ lừa bịp, giả nhân nghĩa của bọn thống trị.

   → Cả ba phần nêu lên bản chất thâm độc, tráo trở của bọn thực dân trên nước thuộc địa.

Câu 2 ( trang 91 sgk Ngữ văn 8 tập 2):

  – Thái độ cai trị của bọn thực dân trước và khi xảy ra chiến tranh: thay đổi đột ngột khiến người ta nghi ngờ về độ trung thực.

   + Trước chiến tranh: Người dân chỉ là những tên “An-nam-mít bẩn thỉu”, chỉ biết kéo xe tay, ăn đòn của quan cai trị.

   + Khi chiến tranh nổ ra: họ thành ” con yêu”, người “bạn hiền” của quan phụ mẫu, quan toàn quyền lớn bé.

  – Số phận thảm thương của người dân thuộc địa.

   + Trả giá đắt cho cái vinh dự “chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do”.

   + Đột ngột lìa xa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng, phơi thây trên các chiến trường châu Âu.

   + Bỏ xác ở những miền hoang vu.

   + Lấy máu mình tưới cho những vòng nguyệt quế .

   + Tám vạn người chết.

   + Người ở hậu phương vắt kiệt sức mình trong các xưởng thuốc súng, nhiễm khí độc, hít phải hơi ngạt.

   → Thân phận của người dân thuộc địa: họ phải bỏ mạng ở chiến trường, họ bị lợi dụng, bị lừa dối bằng giọng điệu bịp bợm xảo trá của bọn thực dân.

Câu 3 (trang 91 sgk Ngữ văn 8 tập 2):

  – Thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân:

   + Tiến hành các cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương.

   + Lợi dụng việc bắt lính để nhũng lạm- tham nhũng.

   + Bắt những người nghèo khổ, khỏe mạnh và tống tiền con nhà giàu.

   + Bọn thực dân dựng lên màn kịch rêu rao về chế độ ” tình nguyện” đi lính.

   → Bọn thực dân với những thủ đoạn tàn ác, lừa gạt, sự bịp bợm đến trơ trẽn của toàn quyền Đông Dương.

  – Người dân thuộc địa không tình nguyện như lời lẽ bọn cầm quyền:

   + Họ tự tìm cách làm cho mình bị nhiễm những căn bệnh nặng nhất để không phải đi lính.

   + Họ bị xiềng xích, bắt bớ, tống giam và bị áp tải xuống tàu.

   → Thân phận hẩm hiu, số phận cùng cực của người dân thuộc địa.

Câu 4 ( trang 92 sgk Ngữ văn 8 tập 2):

   Kết quả hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh là vô nghĩa.

   + Họ trở về “giống người bẩn thỉu” như trước khi xảy ra chiến tranh.

   + Họ bị cướp hết tài sản, của cải, bị đánh đạp, bị đối xử như súc vật, bị đuổi đi một cách trắng trợn.

   + Họ phải bỏ tính mạng của mình, nhưng không được hưởng chút công lý và chính nghĩa nào cả.

   → Sự đối xử của bọn thực dân dã man, nhẫn tâm. Chúng bóc lột xương máu, chúng sẵn sàng tráo trở, lật lọng sự hứa hẹn trước đó.

Câu 5 ( trang 92 sgk Ngữ văn 8 tập 2):

  Bố cục của các phần trong chương được kết cấu theo:

   + Trình tự thời gian: trước, trong, và sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

   + Các chương tập trung tố cáo tội ác của việc bắt lính phục vị chiến tranh, tố cáo sự lừa bịp trơ trẽn, dã man của bọn thống trị.

   + Làm nổi bật sự mâu thuẫn, dối trá của bọn thực dân giữa lời nói và việc làm.

   + Thảm cảnh chết oan thê thảm của người dân “bản xứ”.

  – Nghệ thuật: châm biếm, đả kích sắc xảo của tác giả thể hiện chủ yếu qua:

   + Đưa vào những hình ảnh chân thực phản ánh chính xác thực trạng, có sức tố cáo mạnh mẽ.

   + Ngôn từ của tác giả sâu sắc khi châm biếm, đả kích chính sách và giọng điệu lừa bịp của bọn thực dân: ngôn ngữ có sức gợi hình.

   + Sự đồng cảm trước tình cảm khốn cùng thảm thương của người dân thuộc địa.

   + Dùng câu hỏi tu từ với mục đích đập tan luận điệu xảo trá đến trơ trẽn của chính quyền Đông Dương.

   → Nghệ thuật văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc ngắn gọn, xúc tích, bằng chứng thuyết phục, đa dạng về cách nói. Văn chính luận mà hàm chứa tình cảm, giàu hình ảnh.

Câu 6 ( trang 92 sgk Ngữ văn 8 tập 2):

  Yếu tố biểu cảm thể hiện trong thái độ mỉa mai, châm biếm, đả kích, kẻ thù:

   + “chiến tranh tươi vui”

   + ” Chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi”

   + “Những miền hoang vu mộng mơ”

   + “quan phụ mẫu nhân hậu”

  – Biểu cảm khi thể hiện trong giọng điệu căm phẫn trước tội ác của kẻ thù, và cảm thông, đau xót trước nỗi đau của người dân thuộc địa.

   → Yếu tố biểu cảm làm cho bài văn tăng sức tố cáo mạnh mẽ, thuyết phục hơn.

Giải bài tập sách giáo khoa Ngữ văn 8 ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐️

Mọi chi tiết liên hệ với chúng tôi :
TRUNG TÂM GIA SƯ TÂM TÀI ĐỨC
Các số điện thoại tư vấn cho Phụ Huynh :
Điện Thoại : 091 62 65 673 hoặc 01634 136 810
Các số điện thoại tư vấn cho Gia sư :
Điện thoại : 0902 968 024 hoặc 0908 290 601

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*