Mục lục bài viết
Soạn bài Bàn về phép học (siêu ngắn)
Bố cục
Bố cục: 4 phần
– Phần 1 (Từ đầu…tệ hại ấy): Mục đích của việc học
– Phần 2 (Cúi từ nay…xin chớ bỏ qua): Bàn về cách học
– Phần 3 ( Đạo học…thịnh trị): Kết quả dự kiến
– Phần 4 (Đoạn còn lại): Kết luận về phép học
Đọc hiểu văn bản
Câu 1 (trang 78 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
– Mục đích chân chính của việc học là:
+ Học để biết rõ đạo.
+ Học để làm người
+ Học để làm đất nước thịnh trị.
Câu 2 (trang 78 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
Tác giả đã phê phán lối học sai trái, lệch lạc: Học chuộng hình thức hòng cầu danh lợi, không biết đến tam cương ngũ thường.
⇒Hậu quả: Chúa tầm thường, thần nịnh hót, nước mất nhà tan.
Câu 3 (trang 78 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
Để khuyến khích việc học, Nguyễn Thiếp khuyên vua Quang Trung thực hiện những chính sách sau:
– Tuần tự tiến lên, từ thấp đến cao.
– Học rộng, nghĩ sâu, biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất.
– Học phải biết kết hợp với hành. Học không phải chỉ để biết mà còn để làm.
Câu 4 (trang 78 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
– Có những “phép học” sau:
+ Từ đơn giản đến phức tạp: học bồi lấy gốc, tuần tự tiến lên Tứ thư Ngũ kinh, Chư sử
+ Học nắm lấy cốt lõi
+ Từ lý thuyết đến thực hành: học kết hợp với thực hành
– Tác dụng và ý nghĩa của những phép học ấy:
+ Người tốt rất nhiều
+ Triều đình ngay ngắn, thiên hạ thịnh trị
⇒Đất nước có nhiều nhân tài, quốc gia hưng thịnh.
Câu 5 (trang 78 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
Sơ đồ lập luận của đoạn văn
Luyện tập
Sự cần thiết và tác dụng của phương pháp “học đi đôi với hành”
Trong việc học, phương pháp kết hợp giữa lí thuyết và thực tiễn là vô cùng quan trọng và cần thiết. Lý thuyết giúp ta có kiến thức căn bản đối tượng. Thực hành là cách chúng ta áp dụng lý thuyết học được từ sách vở vào thực tiễn, vận dụng chúng để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Ta có thể thấy, cả hai yếu tố lý thuyết và thực hành đều vô cùng quan trọng. Chúng ta không thể học mỗi lý thuyết để rồi biến nó thành mớ kiến thức không giá trị. Lý thuyết sẽ là nền tảng cơ bản để ta thực hành. Thực hành là cách để biến lý thuyết trở nên hữu ích và ghi nhớ kiến thức. Bởi vậy, để học tốt, cần thực hiện phương pháp “học đi đôi với hành”.
Soạn bài Bàn về phép học (ngắn nhất)
Bố cục: 4 phần
– Phần 1 (Từ đầu…tệ hại ấy): Mục đích của việc học
– Phần 2 (Cúi từ nay…xin chớ bỏ qua): Bàn về cách học
– Phần 3 ( Đạo học…thịnh trị): Kết quả dự kiến
– Phần 4 (Đoạn còn lại): Kết luận về phép học
Câu 1: Phân tích đoạn mở đầu: nêu mục đích chân chính của việc học. Tác giả dùng câu châm ngôn vừa dễ hiểu, vừa tăng thêm sức mạnh thuyết phục.
“Ngọc không mài không thành đồ vật, người không học không biết rõ đạo”. Khái niệm “học” được giải thích bằng hình ảnh so sánh cụ thể nên dễ hiểu. Khái niệm “đạo” vốn trừu tượng, phức tạp được giải thích thật ngắn gọn rõ ràng: “Đạo là lối đối xử hằng ngày giữa mọi người”. Như vậy mục đích chân chính của việc học là học để làm người.
Câu 2: Sau khi xác định mục đích của việc học, tác giả soi vào thực tế đương thời để phê phán những biểu hiện lệch lạc, sai trái trong việc học. Lối học này gây những tác hại lớn.
Tác hại của lối học lệch lạc, sai trái đó là làm cho “chúa trọng nịnh thần” người trên kẻ dưới đều thích sự chạy chọt, luồn cúi, không có thực chất, dẫn đến cảnh “nước mất, nhà tan”.
Câu 3:
Việc học phải được phổ biến rộng khắp: mở thêm trường, mở rộng thành phần người học, tạo điều kiện thuận lợi cho người đi học.
Việc học phải bắt đầu từ những kiến thức cơ bản, có tính chất nền tảng. Phương pháp học học phải:
– Tuần tự tiến lên, từ thấp đến cao.
– Học rộng, nghĩ sâu, biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất.
– Học phải biết kết hợp với hành. Học không phải chỉ để biết mà còn để làm.
Câu 4:
Nói về phép học, Nguyễn Thiếp cho rằng học phải theo trình tự trước – sau, thấp – cao: “Lúc đầu học Tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên…“. Nghĩa là người học phải bắt đầu từ những kiến thức có cơ sở, nền tảng. Học rộng là cần thiết song cần phải biết suy nghĩ để thâu tóm những cái tinh tuý, cốt lõi nhất. Đặc biệt, học phải đi đôi với hành, kiến thức trong sách vở phải được thể nghiệm vận dụng vào thực tiễn đời sống: “Theo điều học mà làm“. Có như thế thì người học mới có khả năng lập công trạng thể hiện điều học được thành hành động, giúp cho đất nước “vững yên”, “thịnh trị”.
Ở thời đại nào cũng cần đến sự học chân chính. Đây là phương cách căn bản để phát triển, tiến bộ. Điều Nguyễn Thiếp nói đúng cho mọi thời đại.
Câu 5: Củng cố bài học bằng sơ đồ lập luận của đoạn văn
Luyện tập
Phân tích sự cần thiết và tác dụng của phương pháp “học đi đôi với hành”.
(trang 78, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Trả lời
Sự cần thiết và tác dụng của phương pháp “học đi đôi với hành”
Học là quá trình tiếp thu kiến thức và lý thuyết, lý luận. Hành là quá trình áp dụng lý thuyết học được vào thực tiễn đời sống và lao động. Phương pháp “học đi đôi với hành” chính là sự kết hợp hoàn hảo giữa nhận thức và hành động của con người, tạo ra tính thực tiễn, bổ sung lẫn nhau làm cho những điều chúng ta học trở nên có ý nghĩa và kết quả. Nếu chỉ học mà không thực hành sẽ sa vào lý thuyết suông, không thể nắm bắt được ý nghĩa sâu sắc với thực tiễn. Học đi đôi với hành thực sự cần thiết và hữu dụng với tất cả mọi người. Song trên thực tế nước ta, phương pháp này chưa được xem trọng, đó là nguyên nhân làm cho chất lượng giáo dục không được cải thiện. Vì thế cần xác định đúng đắn mục tiêu học tập, và thường xuyên áp dụng phương pháp “học đi đôi với hành” để việc học trở nên ý nghĩa.
Soạn bài Bàn về phép học (cực ngắn)
A. Soạn bài Bàn về phép học (ngắn nhất)
Câu 1 :
Mục đích chân chính của việc học: Học để làm người ⇒ để thành người tốt, vì sự thịnh trị của đất nước chứ không vì cầu danh lợi.
Câu 2 :
Phê phán những lối học lệch lạc, sai trái:
– Lối học chuộng hình thức, cầu danh lợi.
– Tác hại: Chúa tầm thường, thần nịnh hót
⇒ nước mất, nhà tan.
Câu 3 :
– Thực hiện chính sách khuyến học: mở thêm trường, mở rộng thành phần người học; tạo điều kiện thuận lợi cho người đi học.
– Việc học phải bắt đầu từ những kiến thức cơ bản, có tính chất nền tảng. Tuần tự tiến từ thấp lên cao. Học rộng, nghĩ sâu, biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất. Học phải kết hợp với hành. Học không chỉ để biết mà còn để làm.
Câu 4 :
Nói về phép học, Nguyễn Thiếp cho rằng học phải theo trình tự trước – sau, thấp – cao: “Lúc đầu học Tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên…”. Nghĩa là người học phải bắt đầu từ những kiến thức có sở, nền tảng. Học rộng là cần thiết song cần phải biết suy nghĩ để thâu tóm những cái tinh tuý, cốt lõi nhất. Đặc biệt, học phải đi đôi với hành, kiến thức trong sách vở phải được thể nghiệm vận dụng vào thực tiễn đời sống: “Theo điều học mà làm”. Có như thế thì người học mới có khả năng lập công trạng thể hiện điều học được thành hành động, giúp cho đất nước “vững yên”, “thịnh trị”.
Ở thời đại nào cũng cần đến sự học chân chính. Đây là phương cách căn bản để phát triển, tiến bộ. Điều Nguyễn Thiếp nói đúng cho mọi thời đại.
Câu 5 :
Củng cố bài học bằng sơ đồ lập luận của đoạn văn:
Luyện tập
Phân tích sự cần thiết và tác dụng của phương pháp “học đi đôi với hành”
Gợi ý
– Học là quá trình tiếp nhận kiến thức và lý thuyết, lý luận.
– Hành là quá trình vận dụng lý thuyết học được vào thực tiễn đời sống và lao động.
– Phương pháp “học đi đôi với hành” chính là sự kết hợp hoàn hảo giữa nhận thức và hành động của con người vào thực tiễn.
– Nếu chỉ học mà không thực hành sẽ sa vào lý thuyết suông, không thể nắm bắt được ý nghĩa sâu sắc với thực tiễn.
– Học đi đôi với hành thực sự cần thiết và hữu dụng với tất cả mọi người. Giúp ta xác định mục đích học tập đúng đắn và đạt được hiệu quả cao trong công việc.
B. Tác giả
– Nguyễn Thiếp (1723 – 1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng gọi là La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp.
– Quê quán: làng Mật Thôn, xã Ao Nguyệt, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ) tỉnh Hà Tĩnh.
– Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Ông từng làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học.
+ Ông từng được vua Quang Trung viết thư mời giúp triều Tây Sơn, góp phần xây dựng đất nước về mặt chính trị.
+ Những tác phẩm tiêu biểu: La Sơn tiên sinh thi tập, Hạnh Am di văn…
C. Tác phẩm
– Hoàn cảnh sáng tác: Nguyễn Thiếp làm quan một thời gian dưới triều Lê rồi về dạy học. Khi Quang Trung xây dựng đất nước đã viết thư mời ông giúp dân giúp nước về mặt văn hóa giáo dục, vì vậy tháng 8 năm 1971, Nguyễn Thiếp đã đang lên vua bản tấu này.
– Xuất xứ: Phần trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung.
– Thể loại: Tấu
+ Là một loại văn thư của bề tôi, thần dân gửi lên vua chúa để trình bày sự việc, ý kiến, đề nghị.
+ Về hình thức, tấu có thể được viết bằng văn xuôi hay văn vần, văn biền ngẫu.
– Phương thức biểu đạt: Nghị luận.
– Bố cục: 3 phần
+ Phần 1 (Từ đầu đến …điều tệ hại ấy): Mục đích của việc học.
+ Phần 2 (Tiếp đến …xin chớ bỏ qua): Bàn luận về cách học.
+ Phần 3 (Còn lại): Tác dụng của việc học.
– Giá trị nội dung: Bài tấu giúp ta hiểu được mục đích của việc học là để làm người có đạo đức, có tri thức, góp phần xây dựng đất nước chứ không phải học để cầu danh lợi. Học tốt phải có phương pháp học đặc biệt học phải đi đôi với hành.
– Giá trị nghệ thuật:
+ Bài tấu có cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ rõ ràng.
+ Ngôn ngữ giản dị, rõ ràng, ý tứ bộc lộ trực tiếp giàu sức thuyết phục.
Tóm tắt Bàn về phép học
Tổng hợp tóm tắt tác phẩm Bàn về phép học Ngữ văn lớp 8 gồm các bài tóm tắt cực hay, ngắn gọn nhất giúp học sinh biết cách tóm tắt tác phẩm Bàn về phép học từ đó nắm được những nét chính về nội dung của văn bản Bàn về phép học trong chương trình Ngữ văn lớp 8.
Tóm tắt Bàn về phép học (mẫu 1)
Bàn về phép học là một bài tấu Nguyễn Thiếp gửi lên vua nhằm nói lên mục đích chân chính của việc học: học để làm người. Tác giả đưa ra quan điểm và phương pháp học đúng đắn: việc học phải bắt đầu từ những kiến thức cơ bản, có tính chất nền tảng, tuần tự tiến từ thấp lên cao, học rộng hiểu sâu, biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất. Bên cạnh đó học phải kết hợp với hành. Học không chỉ để biết mà còn để làm. Điều đó sẽ thúc đẩy đất nước nhiều nhân tài, chế độ vững mạnh, quốc gia hưng thịnh.
Tóm tắt Bàn về phép học (mẫu 2)
Bàn về phép học là một bài tấu Nguyễn Thiếp gửi lên vua. Từ việc đưa ra mục đích chính của việc học, phê phán những quan điểm học tập tiêu cực, thực trạng sai trái tác giả đưa ra và khẳng định quan điểm, phương pháp học đúng đắn, cuối cùng là thuyết phục cho sự đúng đắn ấy bằng việc chỉ ra tác dụng của nó.
Tóm tắt Bàn về phép học (mẫu 3)
Bàn luận về phép học của tác giả Nguyễn Thiếp chỉ ra cho người đọc học tập là một vấn đề rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước như thế nào. Học không phải chỉ để mưu cầu danh vọng mà còn là cách ứng xử với mọi người. Cần biết học đúng cách.
Tóm tắt Bàn về phép học (mẫu 4)
Văn bản Bàn về phép học đã nêu lên mục đích chân chính của việc học: Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo. Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điều ấy. Từ đó, tác giả cũng phê phán những lối học lệch, sai trái: lối học hình thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đếm tam cương, ngũ thường. Chúa tầm thường, thần nịnh hót. Nước mất nhà tan cũng đều do những điều tệ hại ấy. Tác giả đều ra chính sách khuyến khích việc học: ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu nhà văn võ… đều tuỳ đâu tiện đấy mà đi học. Phương pháp học đó là theo Chu Tử. Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc, tuần tự tiến lên đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm. Hoạ may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người.
Tóm tắt Bàn về phép học (mẫu 5)
Nguyễn Thiếp vốn là một thiên tư sáng suốt học rộng hiểu sâu, từng đỗ đạt ra làm quan dưới triều Lê. Khi được vua Quang Trung mời về làm công tác để góp phần xây đất nước về chính trị,a trước tình cảnh đất nước các quan mọn yếu hèn không coi trọng đèn sách kinh sử, học chỉ để hám danh cầu lợi trước mắt khiến cho dân chúng biết bao cực khổ. Thấy vậy ống đã viết tấu dâng lên vua. Tác phẩm “bàn về phép học” của ông được viết ra theo thể tấu là để chỉ ra các tiêu cực về học vấn trong xã hội lúc bấy giờ. Lối học của những kẻ quan tướng hám danh cầu lợi “chúa tầm thường, thần nịnh hót” ấy vậy đã dẫn đến cảnh nước mất nhà tan. Chính vì thế mà Nguyễn Thiếp đã đưa ra mục đích chính của việc học, ông thẳng thắn phê phán những lối học tiêu cực của các quan lại đương thời đồng thời nêu ra thực trạng này hiện vẫn còn đang tồn tại rõ ràng trong xã hội. Nêu lên được quan điểm khẳng định thế nào là phương pháp học đúng đắn và cuối cùng là đề đạt lên vua mong được xem xét vì tác dụng to lớn của phương pháp đó.
Tóm tắt Bàn về phép học (mẫu 6)
Từ xưa tới nay, mối tương quan chặt chẽ giữa học và hành đã được nhiều người quan tâm, bàn luận, Học quan trọng hơn hành hay hành quan trọng hơn học? La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã góp một ý kiến xác đáng về vấn đề này trong bài Bàn luận về phép học: lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc, tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm. Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Ý kiến đó của ông là sự đúc kết kinh nghiệm sau bao năm nghiền ngẫm và áp dụng trong thực tế phương pháp dạy và học của Chu Tử, một bậc thầy của Nho giáo đời Tống bên Trung Quốc.
…………………
…………………
…………………
Sơ đồ tư duy bài Bàn luận về phép học
Nhằm mục đích giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa được kiến thức, nội dung các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 8, chúng tôi biên soạn bài viết Sơ đồ tư duy bài Bàn luận về phép học dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ các nội dung như tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, bố cục, dàn ý phân tích, bài văn mẫu phân tích, …. Hi vọng qua Sơ đồ tư duy bài Bàn luận về phép học sẽ giúp học sinh nắm được nội dung cơ bản của bài Bàn luận về phép học.
A. Sơ đồ tư duy bài Bàn luận về phép học
B. Tìm hiểu bài Bàn luận về phép học
I. Tác giả
– Nguyễn Thiếp (1723-1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng gọi là La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp.
– Quê quán: làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ) tỉnh Hà Tĩnh.
– Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Ông từng làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học
+ Ông từng được vua Quang Trung viết thư mời giúp triều Tây Sơn, góp phần xây dựng đất nước về mặt chính trị
+ Những tác phẩm tiêu biểu: La Sơn tiên sinh thi tập, Hạnh Am di văn…
II. Tìm hiểu chung về tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
Nguyễn Thiếp làm quan một thời gian dưới triều Lê rồi về dạy học. Khi Quang Trung xây dựng đất nước đã viết thư mời ông giúp dân giúp nước về mặt văn hóa giáo dục, vì vậy tháng 8 năm 1971, Nguyễn Thiếp đã dâng lên vua bản tấu này
2. Xuất xứ
Trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8- 1971.
3. Thể loại: Tấu
4. Bố cục
– Phần 1: Từ đầu đến “điều tệ hại ấy”: Mục đích của việc học
– Phần 2: Tiếp đến “xin chớ bỏ qua”: Bàn luận về cách học
– Phần 3: Còn lại: Tác dụng của việc học
5. Giá trị nội dung
Bài tấu giúp ta hiểu được mục đích của việc học là để làm người có đạo đức, có tri thức, góp phần xây dựng đất nước chứ không phải học để cầu danh lợi. Học tốt phải có phương pháp học đặc biệt học phải đi đôi với hành.
6. Giá trị nghệ thuật
– Bài tấu có cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ rõ ràng
– Ngôn ngữ giản dị, rõ ràng, ý tứ bộc lộ trực tiếp giàu sức thuyết phục
III. Dàn ý phân tích tác phẩm
1. Tác giả nêu lên mục đích chính của việc học
– Lựa chọn cách nói trực tiếp, không vòng vo, tác giả khẳng định mục đích chính của việc học là học đạo lí, học làm người bằng sự so sánh, liên tưởng đến hiện tượng có thật: ngọc không mài không thành đồ vật.
2. Phê phán những lối học sai trái, lệch lạc, không đạt hiệu quả
-Tác giả tiếp tục nêu thẳng thực trạng nền giáo dục nước ta từ khi lập quốc đã bị thất truyền. Các lối học ông đưa ra phê phán bao gồm:
+Lối học a dua, hình thức
+Lối học hòng cầu danh lợi
+Đặc điểm chung của cả 2 lối học này và những lối học tiêu cực khác là đều không quan tâm đến tam cương, ngũ thường, đến kiến thức thực học mà chỉ để thỏa mãn những nhu cầu không chính đáng.
+Kết quả của những lối học lệch lạc: Hỏng từ chúa đến quần thần đến dân chúng. Chính điều ấy là một trong những nguyên nhân khiến nước mất nhà tan, vận nước ngắn ngủi, đời sống nhân dân không thể phát triển, văn minh được.
3. Tác giả đề ra những phương pháp học đúng đắn, hiệu quả
-Mở rộng trường học, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân cả nước được đi học không kể giai cấp, tầng lớp.
-Về tư tưởng, đạo lí gốc thì nhất định phải theo Chu Tử.
-Về phương pháp học: học từ đơn giản đến phức tạp, tiến dần theo từng cấp học, học gắn liền với thực hành
IV. Bài phân tích
Nguyễn Thiếp còn có tên khác là La Sơn Phu Tử, quê ông ở xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ nay thuộc Hà Tĩnh, ông là người đức trọng, tài cao được vua Quang Trung rất trọng và mời ra giúp nước. Trong thời gian giúp việc cho vua Quang Trung, ông đã viết bài tấu Luận học pháp. Bài tấu của ông có ba phần bao gồm: phần một bàn về “quân đức” – Đức của vua, phần hai bàn về “dân tâm” – lòng dân, phần ba bàn về “học pháp” – phép học. Đoạn trích Bàn luận về phép học là phần thứ ba này.
Bàn luận về phép học là đoạn văn trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8 – 1791. Vua Quang Trung từng mời Nguyễn Thiếp ra hợp tác với triều Tây Sơn nhưng vì nhiều lý do nên ông chưa nhận lời. Ngày 10/7/1791, vua lại viết chiếu thư mời Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân hội kiến vì có nhiều điều bài nghị. Lần này ông lòng vào Phú Xuân và dựa bàn quốc sự. Nhân lúc này, ông làm bài tấu bàn về ba việc mà bậc quân vương nên biết. Một là về quân đức: Mong bậc đế vương một lòng tu đức, lấy sự học vấn mà tăng thêm tài sản, hai là bài về dân tộc (lòng dân). Khẳng định “Dân là gốc nước, gốc vững nước mới mạnh”, Ba là bàn về học pháp (phép học). Văn bản Bàn luận về phép học chính là nội dung thứ ba của bài tấu.
Trong đoạn trích, luận điểm đầu tiên Nguyễn Thiếp đưa ra mục đích chân chính của việc học. Tác giả sử dụng câu châm ngôn vừa dễ hiểu vừa tăng thêm sức mạnh thuyết phục: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Nhưng đạo ấy là gì? Ấy là cái đích của sự học vậy. Theo tác giả thì “Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người”. Đạo dạy người ta về những mối quan hệ: hẹp thì với bản thân, trong gia đình, rộng ra là ngoài xã hội. Mối quan hệ ấy trong khuôn khổ của xã hội phong kiến không nằm ngoài khái niệm “tam cương”, “ngũ thường” quen thuộc. Tóm lại, học trước hết là học đạo làm người, học để “lập đức” cho mình, để “lập công” nghĩa là phải cống hiến tài năng cho xã hội. Đó là nền tảng của “chính học”, là cơ sở của một quốc gia nước mạnh dân giàu, xã hội thái bình, thịnh trị. Cách nhìn của tác giả đoạn văn có tầm chiến lược dài lâu vì nó đụng đến sự an nguy của xã tắc (tức đất nước).
Ở luận điểm thứ hai, phải khôi phục lại mục đích của nền “chính học”, tác giả không nhắc lại mục đích của việc học nữa, vì nó đã được xác định từ đầu. Đây là hiện tượng chìm đi của quan điểm trong lập luận. Vì vậy, nếu người đọc vô tình sẽ có cảm giác như là hẫng hụt, thấy thiếu đi một cái gì lẽ ra phải có. Thay cho việc nhắc lại mục đích chân chính của việc học, tác giả cần đến việc chấn hưng trên cơ sở ấy. Sự việc chấn hưng to lớn và cấp thiết được nhìn từ hai cấp độ: chiều rộng và chiều sâu. Về chiều rộng: cần mở mang thêm nhiều trường lớp, bằng nhiều hình thức, ở khắp mọi nơi, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người đi học. Quan điểm mà nay gọi là xã hội hoá giáo dục có hai cái lợi mà tác giả không nói rõ ra: một là nâng cao được dân trí và hai là lựa chọn được nhân tài. Đó là cái nền của “chính học”. Điều quan trọng nhất trong luận điểm thứ hai này là chấn chỉnh, sửa sang phép học – phương pháp học tập.
Theo Nguyễn Thiếp, việc học phải được bắt đầu từ những kiến thức có tính chất nền tảng. Và ông đưa ra các phương pháp học cụ thể. Phương pháp thứ nhất, học tuần tự tiến lên, từ thấp đến cao: “Phép dạy, nhất định theo Chu Tử. Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử”. Phương pháp thứ hai, đó là học rộng, nghĩ sâu biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất. Với phương pháp này, Nguyễn Thiếp hướng dẫn người học một cách học đúng đắn, dễ nhớ kiến thức. Chúng ta thường mắc bệnh học nhiều, học tràn lan, nhưng cuối cùng lại không ghi nhớ được gì cả vì không biết nghĩ cho sâu, tóm cho gọn. Có như thế này thì người học mới có thể ghi nhớ được kiến thức của mình lâu và khoa học. Phương pháp thứ ba học phải biết kết hợp với hành. Nói theo quan điểm của Phu Tử đó là “theo điều học mà làm”. Học không chỉ để biết mà còn để làm. Học đi đôi với hành là cách để hiểu và ứng dụng điều học có hiệu quả, điều đó khác với việc học chay, học vẹt, học lý thuyết suông, học một cách máy móc, sáo rỗng, có thể đọc nghìn cuốn sách “chữ chứa đầy bụng” nhưng khi bước vào đời thì ngu ngơ, rỗng tuếch, trở thành “thầy dở, thợ dốt”. Vì không “học đi đôi với hành”, vì không biết “theo điều học mà làm” nên nhiều người “đua học hình thức cầu danh lợi” như La Sơn Phu Tử chê trách.
Tóm lại, bằng lời tấu rất thẳng thắn và chân thành, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã nêu lên mục đích chân chính của việc học và thực trạng tiêu cực của việc học đang hiện hành cùng các phương pháp học tập đúng đắn. Những bài học mà Nguyễn Thiếp mang lại không chỉ có giá trị đối với đất nước trong xã hội phong kiến mà còn bổ ích đối với tất cả chúng ta trong mọi thời đại.
V. Một số lời bình về tác phẩm
“Học là gì ? Học tức là học những cái chưa biết để biết mà đem ra thực hành. Nhưng thực hành cái gì ? Thực hành ở đâu ? Đó là thực hành những gì thực tế trước mắt và còn để lại lợi ích cho đời sau nữa”
(Tế cấp bát điều – Tám việc cần làm gấp – Nguyễn Trường Tộ),
Soạn bài Bàn luận về phép học – La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp
Bố cục
Bố cục: 4 phần
– Phần 1 (Từ đầu…tệ hại ấy): Mục đích của việc học
– Phần 2 (Cúi từ nay…xin chớ bỏ qua): Bàn về cách học
– Phần 3 ( Đạo học…thịnh trị): Kết quả dự kiến
– Phần 4 (Đoạn còn lại): Kết luận về phép học
Đọc hiểu văn bản
Câu 1 (trang 78 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
– Mục đích chân chính của việc học là:
+ Học để biết rõ đạo.
+ Học để làm người
+ Học để làm đất nước thịnh trị.
Câu 2 (trang 78 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
Tác giả đã phê phán lối học sai trái, lệch lạc: Học chuộng hình thức hòng cầu danh lợi, không biết đến tam cương ngũ thường.
⇒Hậu quả: Chúa tầm thường, thần nịnh hót, nước mất nhà tan.
Câu 3 (trang 78 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
Để khuyến khích việc học, Nguyễn Thiếp khuyên vua Quang Trung thực hiện những chính sách sau:
– Tuần tự tiến lên, từ thấp đến cao.
– Học rộng, nghĩ sâu, biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất.
– Học phải biết kết hợp với hành. Học không phải chỉ để biết mà còn để làm.
Câu 4 (trang 78 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
– Có những “phép học” sau:
+ Từ đơn giản đến phức tạp: học bồi lấy gốc, tuần tự tiến lên Tứ thư Ngũ kinh, Chư sử
+ Học nắm lấy cốt lõi
+ Từ lý thuyết đến thực hành: học kết hợp với thực hành
– Tác dụng và ý nghĩa của những phép học ấy:
+ Người tốt rất nhiều
+ Triều đình ngay ngắn, thiên hạ thịnh trị
⇒Đất nước có nhiều nhân tài, quốc gia hưng thịnh.
Câu 5 (trang 78 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
Sơ đồ lập luận của đoạn văn
Luyện tập
Sự cần thiết và tác dụng của phương pháp “học đi đôi với hành”
Trong việc học, phương pháp kết hợp giữa lí thuyết và thực tiễn là vô cùng quan trọng và cần thiết. Lý thuyết giúp ta có kiến thức căn bản đối tượng. Thực hành là cách chúng ta áp dụng lý thuyết học được từ sách vở vào thực tiễn, vận dụng chúng để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Ta có thể thấy, cả hai yếu tố lý thuyết và thực hành đều vô cùng quan trọng. Chúng ta không thể học mỗi lý thuyết để rồi biến nó thành mớ kiến thức không giá trị. Lý thuyết sẽ là nền tảng cơ bản để ta thực hành. Thực hành là cách để biến lý thuyết trở nên hữu ích và ghi nhớ kiến thức. Bởi vậy, để học tốt, cần thực hiện phương pháp “học đi đôi với hành”.
✅ Giải bài tập sách giáo khoa Ngữ văn 8 ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐️
Mọi chi tiết liên hệ với chúng tôi :
TRUNG TÂM GIA SƯ TÂM TÀI ĐỨC
Các số điện thoại tư vấn cho Phụ Huynh :
Điện Thoại : 091 62 65 673 hoặc 01634 136 810
Các số điện thoại tư vấn cho Gia sư :
Điện thoại : 0902 968 024 hoặc 0908 290 601
Leave a Reply