Mục lục bài viết
✅ Dàn ý “Thơ là hùng biện du dương” hãy chứng minh điều đó qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ (2 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐
✅ “Thơ là hùng biện du dương” hãy chứng minh điều đó qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ (dàn ý + 2 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐
✅ Dàn ý Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh (3 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐
✅ 2 bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh 1 (dàn ý + 3 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐
✅ Dàn ý Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ (2 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐
✅ 2 bài văn mẫu Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ (dàn ý + 6 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐
✅ Nghị luận Trong một bức thư bàn luận về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết (dàn ý + 5 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐
✅ Nghị luận Phong cách chính là người (Buy-phông) (dàn ý + 6 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐
Dàn ý Thơ là hùng biện du dương hãy chứng minh điều đó qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
I. Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về tác phẩm.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
– “Thơ là hùng biện du dương”:
+ Hùng biện chính là đưa ra một thông tin, lí lẽ nào đó để thuyết phục người khác nghe theo ý của mình. Ngôn ngữ hùng biện thường chặt chẽ, logic và đanh thép.
+ Thơ ca có những đặc trưng riêng của thể loại, nó không tác động đến cảm xúc người nghe bằng những ngôn từ đanh thép, bằng cốt truyện li kì, … đặc trưng của thơ chính là tính nhạc, nhịp điệu, vần và hình ảnh thơ. Bởi vậy, nói thơ là hùng biện du dương nghĩa là ngôn ngữ thơ không hề thiếu tính thuyết phục, tranh luận, nhưng đó là sự tranh luận bằng cảm xúc, bằng nhạc điệu và hình ảnh.
– Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ chính là một bài thơ mang đậm tính chất “hùng biện du dương như vậy”
2. Thơ là hùng biện
– Cảm hứng sáng tác: từ xúc cảm mãnh liệt trước mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước, tác giả thể hiện khát vọng được dâng hiến “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn lao của cuộc đời.
– Bài thơ là lời hùng biện về tình yêu quê hương đất nước xứ sở
+ Tác giả thể hiện cho bạn đọc biết về tình yêu quê hương xứ sở thông qua niềm tự hào, say sưa ngây ngất trước vẻ đẹp của thiên nhiên xứ sở: “Dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc”, con chim chiền chiện hót vang trời, …
+ Qua niềm tự hào về một đất nước có lịch sử 4000 năm lâu bền, qua sự khẳng định niềm tin vào tương lai tươi sáng, hùng vĩ của đất nước: “đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”
– Bài thơ là lời hùng biện về khát vọng được dâng hiến mùa xuân nho nhỏ của mình cho mùa xuân đất nước.
+ Trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời tác giả muốn làm những điều giản dị gần gũi như: con chim hót, nhành hoa, một nốt trầm, để tô điểm thêm cho bức tranh xuân.
+ Nguyện lặng lẽ dâng hiến mùa xuân nho nhỏ cuộc đời mình. Đó không phải khát khao của một lúc mà là cả một đời: “Dù là tuổi hai mươi/ Dù là …”
+ Đại từ “vừa” chỉ số ít vừa chỉ số nhiều, đó là tâm tư riêng của tác giả nhưng đó cũng như một lời thuyết phục tất cả mọi người cùng hòa nhập vào cuộc sống chung của đất nước.
– Nhận xét: bài thơ chính là lời hùng biện cho khát vọng được dâng hiến, khát vọng hòa cuộc đời nhỏ bé với cuộc sống tươi đẹp lớn lao.
3. Thơ là hùng biện nhưng không khô khan, đanh thép mà du dương
– Tác giả hùng biện về tình yêu quê hương đất nước thông qua những hình ảnh thơ trong trẻo, đầy sức sống, qua cái nhìn trìu mến với cảnh vật trong những lời bộc lộ trực tiếp như nói chuyện với thiên nhiên: “ơi con chim chiền chiện …mà ”
– Lời hùng biện giàu tính nhạc của bài thơ thể hiện qua nhịp điệu trong sáng trong từng khổ thơ, qua âm thanh trong khổ thơ:
+ Âm thanh tiếng chim chiền chiện hót vang trời như đọng thành “từng giọt long lanh”
+ Đó còn là âm thanh vang vọng của nhịp phách tiền, của khúc nam ai nam bình xứ Huế
+ Cả bài thơ như một khúc ca nhịp nhàng với những hình ảnh sóng đôi, những điệp ngữ được sử dụng thường xuyên: “mùa xuân”, “tất cả như”, “ta làm”.
+ Nhịp điệu bài thơ khi nhẹ nhàng sâu lắng, khi khẩn trương hăng say, giống như một khúc nhạc: đoạn đầu vui say sưa với vẻ đẹp thiên nhiên, rồi phấn trấn trước khí thế lao động của đất nước, cuối cùng trầm lắng, trang nghiêm thiết tha bộc bạch tâm niệm.
+ Thơ 5 chữ nhẹ nhàng, tha thiết mang âm hưởng dân ca
– Lời hùng biện giàu hình ảnh:
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác khiên ngôn ngữ thơ đa nghĩa, giàu hình ảnh hơn: “từng giọt long lanh rơi” (giọt mưa mùa xuân, giọt tiếng chim hót)
+ Kết hợp hài hòa hình ảnh thơ tự nhiên, giản dị với những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng khái quát.
– Đó còn là sự hùng biện bằng một cảm xúc chân thành của con người luôn yêu quê hương xứ sở, cả một đời khát khao được cống hiến và cũng khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
– Nhận xét: bài thơ Mùa Xuân nho nhỏ là một minh chứng rõ ràng cho nhận định “thơ là hùng biện du dương”, bài thơ đã hùng biện về khát khao cống hiến, tình yêu đất nước bằng cảm xúc chân thành, bằng nhạc điệu du nhịp nhàng và hình ảnh trong sáng.
III. Kết bài
– Bài thơ thể hiện những rung cảm tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, đất nước và khát vọng được cống hiến cho đất nước, cho cuộc đời.
Dàn ý Thơ là hùng biện du dương hãy chứng minh điều đó qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải viết trước một tháng trước khi ông qua đời. Đây có thể coi là kết tinh nghệ thuật của cuộc đời ông. Tác phẩm vừa có cái du dương, trầm lắng nhưng cũng đầy tính hùng biện, hào hùng. Một cách ngắn gọn thì có lẽ nhân xét này là vô cùng chuẩn xác: “Thơ là hùng biện du dương”
Quả thực đúng như vậy, thơ không chỉ đơn thuần truyền tải, khuyên răn bạn đọc một thông điệp nào đó. Nếu chỉ đơn giản mục đích là như vậy, có lẽ không cần đến thơ ca cũng có thể tuyên truyền được. Nhưng cái hay của thơ chính là truyền tải thông điệp cứng nhắc bằng sự du dương, trầm bổng của mình. Khi ấy sẽ dễ dàng đi vào lòng bạn đọc hơn rất nhiều.
Hùng biện được hiểu là những lí lẽ, dẫn chứng khiến người nghe bị thuyết phục. Tính hùng biện có quan hệ chặt chẽ trong cách sử dụng ngôn ngữ danh thép, lo gic và chặt chẽ. Còn tính du dương được coi như một đặc trưng khi biệt của thơ ca. Tính du dương trong mỗi tác phẩm bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố như nhịp điêu, thể thơ, hình ảnh. Khi nhận xét “Thơ là hùng biện du dương” tác giả muốn khẳng định ngôn ngữ, hình ảnh thơ phải thật du dương, nhưng cũng không thiếu được những lí lẽ thuyết phuc, logic làm cho gười đọc bị thuyết phục hoàn toàn.
Tính hùng biện trong bài thơ Mùa xuân n ho nhỏ được thể hiện rất rõ nét. Nhưng để thấy được tính hùng biện của tác phẩm này cần hiểu rõ luận đề mà Thanh Hải đưa ra trong bài thơ này là gì. Nương theo dòng cảm xúc của toàn bộ văn bản có thể thấy luận đề trung tâm của tác phẩm chính là: khát vọng được cống hiến mùa xuân nho nhỏ của bản thân cho mùa xuân lớn của đất nước. Từ luận đề chung đó, Thanh Hải triển khai thành những ý nhỏ vô cùng logic, chặt chẽ. Trước hết đó là niềm tự hào, tình yêu quê hương xứ sở:
Mọc giữa dòng sông xanh…
Tôi đưa tay tôi hứng
Một bức tranh đậm đà chất Huế mà chỉ cần với năm câu thơ, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc. Bức tranh đó có còn sống xanh biếc bởi những nhánh cây lục bình, có những bông hoa tím mộng mơ, có tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Và tác giả yêu quý, trân trọng tất cả khung cảnh đẹp đẽ đó. Hành động “tôi đưa tay tôi hứng” đầy nâng niu, trân trọng, đã phần nào cho thấy tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Không chỉ vậy, tình yêu đất nước còn thể hiện trong niềm tin son sắt vào sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước với thời gian: “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”. Dù trải qua bao mưa gió, bao phong ba, bão táp, tác giả vẫn có một niềm tin dai dẳng về sự phát triển, về sự trường tồn của quê hương.
Lời hùng biện đó của tác giả nhằm hướng đến mục đích cuối cùng chính là lặng lẽ dâng cho đời một mùa xuân nhỏ nhỏ, góp chút công sức nhỏ nhoi cho sự phát triển chung của dân tộc.
Ta làm con chim hót…
Một nốt trầm xao xuyến
Những điều mà tác giả muốn hòa thân thật dung dị, đẹp đẽ là con chim, là nhành hoa, hay chỉ đơn thuần là một nốt trầm trong bản nhạc đạc lớn của cuộc đời. Và nguyện ước đó đâu chỉ là ngày một ngày hai mà nó đã được hình thành ngay từ khi tác giả còn rất trẻ: “Dù là tuổi hai mươi/ Dù là khi tóc bạc”. Đến đây tình hùng biện của bài thơ càng được khẳng định rõ nét hơn: bài thơ chính là lời hùng biện đanh thép cho lẽ sống đẹp: sống là cống hiến, là hiến dâng cả cuộc đời cho đất nước.
Nhưng thơ đâu chỉ là những lời lẽ hùng biện khô khan, cứng nhắc, nếu vậy sẽ rất khó đi vào lòng người. Để người đọc dễ dàng cảm nhận thơ còn mang tính du dương, trầm bổng. Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải cũng như vậy. Tính du dương đó trước hết thể hiện ở tình cảm trực tiếp, ở những hình ảnh giản dị, thân thuộc của quê hương. Nhắc đến Huế ai chẳng nhớ đến dòng sông Hương hiền hòa, lặng lẽ, nhớ đến những cánh hoa lục bình tím biếc hay tiếng chim chiền chiện hót vang trời đón xuân sang. Bằng một tình yêu chân thành, sự gắn bó máu thịt, Thanh Hải nâng niu từng cảnh sắc của đất trời xứ Huế. Câu thơ cuối trong khổ thơ thứ nhất với từ cảm thán “ơi” và hành động “hứng” như một lần nữa khẳng định tình yêu tha thiết, chân thành đó.
Tính du dương của thơ bao giờ cũng được thể hiện rõ nhất ở nhịp điệu. Mùa xuân nho nhỏ được viết bằng thể thơ năm chữ, giàu nhịp điệu. Nhịp điệu linh hoạt, khi tha thiết, trầm bổng trước hành trình đầy gian lao, vất vả của đất nước: “Mùa xuân người cầm súng/ Lộc dắt đầy trên lưng/ Mùa xuân người ra đồng/ Lộc trải dài nương mạ”; khi hối hả, gấp gáp: “Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao”; khi mạnh mẽ cuộn trào: “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”. Nhịp điệu đó còn được kết hợp với tiếng chim chiền chiện vang trời, với nhịp phách Huế, câu Nam ai Nam bình đầy da diế. Cứ như vậy, từng khúc nhạc, từng nhịp điệu quấn quýt, hòa quyện với nhau tạo thành một bản nhạc tuyệt vời về lối sống đẹp, về sự cống hiến, hi sinh.
Có thể thấy, Mùa xuân nho nhỏ chính là minh chứng rõ ràng nhất, điển hình nhất cho nhận xét: “Thơ là hùng biện du dương”. Chất hùng biện, triết lí được bao bọc, thể hiện bởi sự du dương đã đem đến cho bạn đọc một bài học, một triết lí lớn trong cuộc sống: sống là cống hiến, là cho đi không chỉ nhận riêng mình.
Dàn ý bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
I. Mở bài
– Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường, thơ chị là tiếng lòng của một tâm hồn luôn khao khát tình yêu, tiếng thơ vừa hồn nhiên vừa nồng nàn, mãnh liệt.
– Bài thơ đuợc in trong tập Hoa dọc chiến hào, là một trong những bông hoa rực rỡ nhất trong đời thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ là tâm trạng mãnh liệt của người phụ nữ trong tình yêu.
II. Thân bài
– Hai hình tượng sóng đôi trong tác phẩm là hình tượng “sóng” và “em”, có khi tách riêng, nhưng lúc lại hòa làm một đã thể hiện thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của người phụ nữ trong tình yêu.
– Khổ 1: + Con sóng của đại dương hiện lên với nhiều đối cực khác nhau dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, đó cũng là hình ảnh trái tim chứa đựng nhiều cảm xúc phong phú phức tạp của người phụ nữ.
+ Hai câu sau là sự bứt phá của sóng thoát khỏi không gian sông nhỏ hẹp, “không hiểu mình” để tìm đến biển cả rộng lớn, người phụ nữ cũng luôn khát khao những giá trị tuyệt đích trong tình yêu, luôn muốn khám phá chính mình.
– Khổ 2: + Thời gian có đổi thay, những bản tính của sóng “ngày xưa”, “ngày sau” vẫn như vậy: luôn dạt dào, khao khát tìm kiếm không gian rộng lớn vẫy vùng, luôn hướng đến bờ.
+ Cũng như trong, trái tim của người con gái luôn rạo rực, “bồi hồi” khát khao được yêu thương, khát khao đến bến bờ nơi anh.
– Khổ 3: + Trái tim tình yêu của người con gái đã hòa nhịp chung với nhịp vỗ của “muôn trùng sóng bể”.
+ Người con gái trong tình yêu luôn khát khao nhận thức về mình, người mình yêu và về tình yêu. Nỗi khắc khoải “Từ nơi ..lên” là khát khao tìm nguồn cội tình yêu.
– Khổ 4: + Đến đây chính là lời giải đáp cho những băn khoăn ở khổ trước.
+ Vì trái tim người con gái đã hòa nhịp cùng sóng, nên để tìm nguồn cội tình yêu người con gái muốn lí giải nguồn cội của sóng trước, nhưng tất cả đều bí ẩn, để rồi ngại ngùng thốt lên “Em cũng không biết nữa”.
– Khổ 5: + Nỗi nhớ bờ của sóng triền miên, bao trùm khắp không gian “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”, thời gian “ngày” – “đêm”, dạt dào đến “không ngủ được”. Đó cũng là nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu.
+ Nỗi nhớ “anh” của “em” còn ăn sâu vào cả tiềm thức, luôn thường trực trong mọi suy mọi lúc, mọi nơi ngay cả trong giấc mơ “cả trong mơ còn thức”.
– Khổ 6: + Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.
+ Lời thề thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về người mình yêu bằng cả trái tim.
– Khổ 7: khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “con nào chẳng tới bờ … Dù… cách trở”, cũng giống như “em”, dù khó khăn, thử thách vẫn luôn hướng đến “anh”.
– Khổ 8: + “Cuộc đời tuy dài thế / Năm tháng vẫn đi qua”: cảm giác cô đơn nhỏ bé trước cuộc đời, nỗi lo âu về sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô tận.
+ “Như biển kia … bay về xa”: cảm giác bất an trước cái dễ đổi thay của lòng người giữa “muôn vời cách trở”. Nhưng đây còn là vượt lên sự lo âu phấp phỏng đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng.
– Khổ 9: + “Làm sao” gọi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.
+ Đó là khát khao của người phụ được sống “biển lớn trong tình yêu ” bằng tình yêu và cùng tình yêu, khát khao hòa nhập tình yêu riêng tư trong tình yêu chung rộng lớn.
III. Kết bài
– Nêu cảm nhận về bài thơ Sóng
– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng thành công hình tượng “sóng”ngôn từ, hình ảnh trong sáng bình dị, …
– Sóng là bài thơ in đậm dấu ấn tâm hồn người phụ nữ vừa đời thường, chắt chiu nhưng khát khao những gì tuyệt đích trong tình yêu.
Bình giảng bài thơ Sóng
Trong bài “Tương tư chiều” Xuân Diệu đã từng viết:
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi
Đó là những lời yêu tha thiết, nồng nàn của một chàng trai trước người con gái mình yêu. Thật táo bạo mạnh mẽ, mà cũng đầy chân thành, da diết. Nếu như nam nhân viết thơ tình ta nhớ đến Xuân Diệu, thì nữ nhân viết thơ tình không thể không nhắc đến Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh người phụ nữ của hạnh phúc đời thường, thơ bà viết dung dị, ngâp đầy cảm xúc. Sóng là một ví dụ điển hình về hồn thơ của bà.
Viết về sóng, thuyền biển không chỉ đến Sóng của Xuân Quỳnh mới có, mà ta đa biết đến Xuân Diệu, hay chính bản thân bà đã có bài Thuyền và biển. Nhưng nếu như Thuyền và biển da diết, sâu lắng thì Sóng lại mang trong mình cái nồng nàn, mãnh liệt, của con người trẻ tuổi đang cuống quýt yêu đương, cuốn quýt bày tỏ:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.
Tình yêu của tuổi trẻ đam mê cuồng nhiệt. Cũng như bao nhiêu người yêu nhau khác, họ luôn có một ham muốn truy nguyên nguồn gốc của tình yêu. Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng vậy:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu ổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Hai câu thơ đầu đã nói lên hai trạng thái đối lập trong tình yêu, khi dữ dội ồn ào, khi lại dịu êm, lặng lẽ. Đó cũng chính là những cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Xuân Quỳnh quả là một người phụ nữ tài tình khi biểu lộ tình cảm, cảm xúc của nhưng người đang yêu nhau. Đọc khổ thơ bất giác ta cũng phải không ngừng thổn thức trước những cung bậc cảm xúc ấy. Trong cuộc sống hay đặc biệt là tình yêu, ai mà chẳng có khao khát hiểu tường tận, kĩ lưỡng, nhưng “sông” cũng đành bất lực mà không hiểu, bởi vậy mang trong mình quyết tâm tìm ra tận bể đê truy nguyên nguồn gốc. Ý nghĩ thật táo bạo, thật độc đáo. Xưa nay có người con gái nào lại có những suy nghĩ và hành động như vậy. Qua đó cũng thể hiện được trái tim yêu cháy bỏng của nhân vật trữ tình.
Sóng tìm nguồn gốc của tình yêu thật logic, bắt đầu truy tim từ nguồn gốc của song:
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Nếu như quy luật của tình yêu thật dễ dàng để phân tích, lý giải, sóng được sinh ra từ gió. Thì quy luật của tình cảm lại là một câu đố không bao giờ có lời giải đáp. Chúng ta yêu một người mà chẳng thể lí giải vì sao lại yêu, chúng ta cũng chẳng lí giải được con tim kia rung động từ khi nào. Chỉ biết một ngày trái tim bỗng lạc nhịp vì một ai khác, ấy chính là lúc ta nhận ra mình yêu từ lúc nào không hay. Nhân vật trữ tình cũng buộc phải thừa nhận, không biết tình yêu đó bắt đầu từ lúc nào.
Cả bài thơ là tình yêu nồng nàn, tha thiết, nó như trăm ngàn con sóng dội vào bờ, tình yêu vì thế mà cũng không ngừng dâng lên:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Trong câu thơ này, tình yêu như con ngọn sóng cao nhất, mạnh mẽ nhất, đây là khổ thơ duy nhất có đến sáu câu, cũng là khổ thơ thể hiện nỗi nhớ mãnh liệt nhất của nhân vật trữ tình. Dù là dưới đáy sông hay trên mặt nước, dù ngày hay đêm sóng vẫn luôn thao thức. Em cũng vậy, vẫn luôn nhớ về anh, thậm chí ngay cả miền vô thức tình yêu, nỗi nhớ vẫn dâng trào, cuộn sóng. Đọc câu thơ ta lại bất giác nhớ đến bài Thuyền và biển: “Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu thương nhớ/ Những ngày không gặp nhau/ Lòng thuyền đau rạn vỡ”. Ở bất cứ thời điểm nào, dường như tình yêu đối với Xuân Quỳnh vẫn luôn là lẽ sống, luôn da diết, cuộn trào.
Nếu như đầu bài thơ tình yêu thơ dại, cuống quýt, nồng nhiệt, thì đến cuối bài thơ lại càng trở nên thâm trầm, sâu sắc hơn. Tình yêu của bà thủy chung, son sắt “Dẫu xuôi về phương bắc/ Dẫu ngược về phương Nam” vẫn luôn một lòng hướng về phương anh. Và để khẳng định hơn nữa tình yêu của mình hai khổ thơ cuối thể hiện ý chí quyết tâm, thể hiện nguyện ước chân thành của tác giả trong tình yêu:
Ở ngoài kia đại dương…
Để ngàn năm còn vỗ
Dù cuộc đời còn nhiều chông gai, còn nhiều spsng gió nhưng sóng vẫn đến bờ, mây vẫn bay về xa cũng như tình yêu của em dành cho anh vẫn luôn vẹn tròn, thủy chung không bao giờ thay đổi. Kết thúc bài thơ là nguyện ước tha thiết được tan ra vào tình yêu lớn của đất trời, để ngàn năm sống trong tình yêu. Lời thơ trở nên mạnh mẽ, gấp gáp cũng như nhịp đập trái tim chân thành, mãnh liệt.
Bài thơ được viết bằng thể thơ ngữ ngôn giàu nhịp điệp, hình ảnh biểu tượng giàu cảm xúc, ý nghĩa. Sóng là bài thơ bất hủ về tình yêu, về lẽ sống và những khát khao đẹp đẽ. Gấp lại trang thơ long người đọc vẫn không khỏi bùi ngùi, xúc động trước tình yêu chân thành và mãnh liệt đó.
Dàn ý Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ
I. Mở bài
– Tô Hoài là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam đương đại. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông, được viết sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1953. Truyện được giải nhất cửa Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
– Tác phẩm là bức tranh bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân và là bài ca về phẩm chất, vẻ đẹp, về sức sống mãnh liệt của người lao động. Nhân vật chính kết tinh được phẩm chất cao đẹp và thể hiện rõ giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo của tác phẩm và nhân vật Mị.
II. Thân bài
* Trước khi làm dâu gạt nợ, Mị là một cô gái hầu như tập trung được những vẻ đẹp tiêu biểu của người phụ nữ miền núi: Mị vừa đẹp người, vừa đẹp nết, cần cù, đảm đang, hiếu thảo, giàu đức hi sinh vị tha, ham sống, yêu đời và rất mực tài hoa.
* Khi về làm con dâu cho nhà thống lí, Mị đã phản kháng bằng nước mắt: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cao hơn một mức nữa, Mị đã định tự hủy diệt cuộc đời mình bằng nắm lá ngón. Nhưng lòng hiếu thảo – vì thương bố còn khổ hơn bây giờ bao nhiêu lần, đã níu kéo Mị trở về kiếp sống ngựa trâu. Dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền, những hủ tục phong kiến nơi miền núi, Mị gần như tê liệt hết về sức sống, Mị thờ ơ với sự chảy trôi của thời gian, sắc màu cuộc sống của Mị trở nên mờ nhạt. Nó được biểu tượng bằng “Một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay”, “lúc nào cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.
Mị trở thành con người cam phận sống cuộc sống “thân phận con rùa”, “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
* Đoạn đời thứ 3: Sức sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân và hành động cởi trói cho A Phủ. Họ cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài, tìm đến khu du kích Phiềng Sa.
a. Mùa xuân về trên rẻo cao, đặc biệt là đêm tình mùa xuân với tiếng sáo, tiếng khèn của trai làng gọi bạn tình có ý nghĩa như “một hoàn cảnh điển hình” làm cho sức sống tiềm tàng trong con người Mị trỗi dậy một cách mãnh liệt.
– Ngày Tết, Mị cũng uống rượu: “Mị… cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say”. Với những tác động của ngoại cảnh và men rượu, Mị đã thoát khỏi tâm trạng dửng dưng bấy lâu để trở thành con người thức tỉnh, vươn tới những ý nghĩ và khát vọng đẹp đẽ. Chú ý phân tích diễn biến tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân: “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” -> lòng Mị đang phơi phới sống về những ngày trước. Mị thấy “trong lòng đột nhiên vui sướng… Mị trẻ lắm… Mị muốn đi chơi” -> Ý thức về bản thân trỗi dậy, Mị phẫn uất mãnh liệt và thấm thía nỗi tủi nhục của mình, Mị muốn chết -> trong khi đó, tiếng sáo, biểu tượng của khát vọng tự do và tình yêu tuổi trẻ “đang rập rờn” trong đầu Mị -> Mị khêu to ngọn đèn cho sáng như thể khêu ngọn lửa của lòng ham sống, của sự khát khao -> Hành động này thúc đẩy hành động khác, không thể kìm nén được nữa. Nó là sự thôi thúc của trái tim như muốn phá vỡ những xiềng xích tàn bạo trong nhà thống lí Pá Tra, thách thức mọi ràng buộc khắt khe của nhà Pá Tra, của người chồng tàn ác: “Mị quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa” chuẩn bị đi chơi ngày Tết. Nhưng giữa lúc lòng ham sống trong Mị trỗi dậy, dâng lên mãnh liệt như sóng trào thì cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách khắc nghiệt, lạnh lùng. A Sử, chồng Mị thản nhiên “trói đứng Mị vào cột nhà” -> “Như không đang biết mình đang sợ bị trói… Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”, quên mọi đau đớn về thể xác, “Mị đã vùng dậy bước đi”. Điều đó chứng tỏ sức sống tiềm ẩn trong con người Mị mãnh liệt biết nhường nào.
b. Sức sống trỗi dậy trong con người Mị còn được thể hiện rõ nét ở hành động cởi trói cho A Phủ, cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài.
+ Bên cạnh bếp lửa, nhìn thấy A Phủ bị trói đứng một cách thảm khốc, mấy đêm đầu Mị vẫn thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người ở nhà Pá Tra xảy ra như cơm bữa. Vả chăng, Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực.
+ Nhưng đêm nay, dưới ánh lửa “bập bùng” trông thấy hai hàng nước mắt “lấp lánh” bò xuống hai hõm má đã “xám đen lại của A Phủ”, Mị càng thương mình, càng thương người. Tình thương, niềm đồng cảm giữa những con người cùng cảnh ngộ ấy đã lấn át nỗi sợ và lớn hơn cái chết, nó đã dẫn đến hành động táo bạo: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ, cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài.
+ Đây là hành động tuy tự phát nhưng là kết quả của một quá trình, nó minh chứng sức sống tiềm tàng, âm ỉ không ngừng trong con người Mị. Nó là một bước ngoặt trong tính cách và cuộc đời Mị. Ý thức được nỗi khổ của kiếp sống tủi nhục của mình, Mị đã vượt qua nhà ngục thống lí Pá Tra với biết bao thế lực hà khắc của cường quyền, hủ tục, lễ giáo phong kiến (con gái Mèo lấy chồng, suốt đời là cái đuôi con ngựa của chồng, chồng chết lại phải lấy anh hoặc em chồng).
III. Kết luận:
– Qua cuộc đời và số phận của Mị, Tô Hoài bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống cho người lao động, đặc biệt là người phụ nữ miền núi. Đồng thời, tác giả cũng cất lên bài ca ca ngợi phẩm giá cao đẹp của họ. Đó là ý nghĩa nhân đạo cơ bản của tác phẩm.
– Mị là một nhân vật rất thành công của văn xuôi hiện đại. Có được điều này là nhờ cái nhìn trân trọng, thương yêu đối với nhân vật của tác giả, đặc biệt là khả năng phân tích tâm lí sâu sắc, tinh tế của Tô Hoài.
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ
Cuộc đời của Mị được tính từ khi cô về làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Thường thì khi người con gái lấy chồng giàu thì sướng, nhàn hạ. Nhưng đây, Mị chỉ lùi lũi một mình, câm lặng. Xưa kia Mị cũng đã có một thời con gái hạnh phúc (trong đói nghèo). Những đêm tình mùa xuân, con trai đến thổi sáo đứng “chật cả chân vách đầu buồng Mị”. Và Mị đã có một tình yêu, có hiệu gõ vách hẹn hò. Tâm hồn cô gái xinh đẹp và loài hoa ấy luôn mở rộng để đón nhận hương hoa của cuộc đời. Nhưng rồi tất cả đều chấm dứt trong cái đêm Mị bị bắt cóc về nhà thống lí Pá Tra. “Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa”. Mị bị bắt cóc để rồi trở thành con dâu thống lí là trả cái món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ Mị.
Những ngày đầu làm dâu nhà thống lí, Mị thấm thía nỗi đau một cuộc đời bị cướp đoạt “đêm nào Mị cũng khóc”. Đúng là về làm dâu gạt nợ, Mị bị cha con thống lí đối xử không khác gì con vật. Suốt ngày Mị chỉ “ngồi quay sợi gai cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi”. Cuộc đời cô cột chặt vào những công việc nặng nhọc. Đọc đoạn văn mở đầu của truyện không thể không băn khoăn, khao khát muốn hiểu nguyên nhân xô đẩy Mị vào tình cảnh mà cô phải chịu.
Trước khi về cửa nhà thống lí Mị đẹp như một bông hoa rừng. Cô là một phụ nữ trẻ đẹp, chăm chỉ công việc, giàu lòng hiếu thảo, tự tin, thông minh…Người con gái ấy là niềm khát khao, ước mơ của bao nhiêu chàng trai “Có biết nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị chưa kịp nếm những trái ngọt của cuộc đời đã phải cay đắng tìm đến nắm lá ngón, mong kết liễu cuộc đời không ra gì. Bởi vì, Mị không muốn chấp nhận một cuộc sống chết mòn héo úa – điều này chứng tỏ con người Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt, muốn thoát khỏi cuộc sống nô lệ. Nhưng vì tình thương cha, lòng hiếu thảo, Mị khó không đành chết nên vứt nắm lá ngón, trở lại nhà thống lí. Ngày lại ngày qua, nỗi khổ cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng trong con người Mị. Mị không nghĩ đến cái chết nữa (ngay cả khi cha cô không còn). Mị tưởng mình cũng chỉ là con trâu, con ngựa nhà thông lí, sống trong nhà thống lí ách áp bức của giai cấp thống trị, thần quyền, sự mê tín đã biến Mị trở thành con người hoàn toàn khi “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Dường như mối giao cảm giữa Mị với cuộc sống bên ngoài chỉ còn thu hẹp của “căn buồng âm u, kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trắng trắng, không biết là sương hay nắng”.
“Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha, bồi hồi”. Tiếng sáo ấy đã khơi dậy sức sống ẩn náu trong Mị tưởng như đã nguội tắt. Mị còn nhớ như in những lời hát tình tứ mà Mị đã nghe, đã hát, đã thổi sáo, thổi kèn lá ngày nào. Hiện tại bây giờ cô đang sống lại cảnh tượng ngày xưa. Cô đâu phải là con người “chết dần chết mòn” về nhân tính như Chí Phèo. Tiếng sáo bây giờ đã thấm vào trái tim Mị, thức tỉnh sự câm lặng bấy lâu. Rồi Mị uống rượu, men rượu hay men cuộc đời đã nâng bỗng tâm hồn Mị lên, tâm hồn Mị đã thoát xác, vượt ra ngoài cái ô cửa “mờ mờ trăng trắng kia”. Khát vọng đi chơi bỗng bùng cháy trong tâm hồn Mị. Khái vọng ấy là cuộc khởi nghĩa nhân tính trong Mị. Bởi vì, từ ngày về làm dâu nhà thống lí “Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi”. Vậy mà khi tiếng chó sủa xa xa, vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Sau bao nhiêu năm sống trong nhà thống lí, lần đầu tiên tiếng sáo của ai đó đến với Mị như một âm thanh của hiện tại. Rồi sau đó tiếng sáo làm sống lại bao rung động tâm linh của mùa xuân năm nào. Mới đầu tiếng sáo còn lấp ló nơi đầu núi, cuối cùng tiếng sáo đã thực sự hoá thân, nhập thân trong Mị “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”. Góp phần làm nên cuộc “nổi loạn” nhân tính trong Mị có nhiều yếu tố; yếu tố ngoại lực, yếu tố nội lực. Trong đó, yếu tố quan trọng nhất phải chăng là tiếng sáo mùa xuân. Ngày xuân, không có gì cuốn hút Mị bằng tiếng sáo, tiếng sáo đối với Mị mỗi lúc một mãnh liệt. Từ đầu là những âm thanh xa xôi, sau đó tiếng sáo trở thành lời mời gọi giúp Mị lãng quên quá khứ, sống vui vẻ với tương lai. “tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, đám chơi”.
Quá trình hồi sinh của Mị đã không được miêu tả một cách dễ dãi, hời hợt, tâm trạng nhân vật được nhìn nhận từ cái nhìn lưỡng phân. Con người hiện tại dường như đã chết, con người quá khứ đang dần dần từng bước được hồi sinh. Mị như cây hoa ban, hoa Đào Tây bắc trước lúc vào xuân, nhìn bề ngoài thì có vẻ khẳng khiu, khô gầy, mỏng manh như đã chết nhưng bên trong sức sống vẫn âm ỉ, vẫn chờ thời để bừng sáng sắc xuân. Tết đến, Mị rất muốn đi chơi, nhưng A Sử không cho Mị đi, năm nào cũng vậy, A sử toàn đi một mình để Mị ở nhà như người xa lạ. Nhưng giai cấp phong kiến, gia đình nhà thống lí không thể cưỡng ép được Mị lâu, một con người sức sống đang còn cháy rực trong tâm hồn. Lúc này khi “tiếng sáo đang lửng lơ bay ngoài đường” gọi bạn đi chơi mà Mị đã phải ngồi cô độc trong xó cửa. Cô không thể dằn lòng được “Mị vùng dậy khêu đèn sáng, cuốn lại lóc, mặc váy hoa vắt ở vách” toan bước đi, tìm đến nơi đang lửng lơ bay tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha. Nhưng Mị vừa bước đi thì A sử lại kéo cô lại. A Sử không hề đánh đập, chửi rủa mà anh lầm lì như cái bóng từ từ trói cô vào cột nhà. Và bây giờ Mị mới bật khóc, khóc oan trái cho một kiếp người khao khát sống, muốn yêu mà đang ghì chặt vào một cuộc sống “không bằng con ngựa”. Nhưng từ đây sức sống của một cô gái yêu đời lại trỗi dậy. Trong bóng tối, cô đang mơ màng đi theo tiếng sáo, tiếng sáo ấy đã có lần đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Nhưng rồi quá khứ chưa đi, hiện tại lại về. Giờ đây, Mị đang bị A Sử trói, dường như cô sống mà như đã chết. Đã chết phần hồn lẽ nào giờ đây cô lại để chết cả phần xác, Mị thấy xung quanh mình chỉ là bóng tối, không một tiếng động, cô “vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa”.
Thời gian lại trôi qua, cho đến cái đêm A Phủ bị trói đứng vào cây cọc : trong nhà thống lí vì để hổ bắt mất con bò… A Phủ vì đánh lại con quan nên làng phạt vạ, và trở thành người ở gạt nợ của gia đình thống lí còn Mị làm dâu gạt nợ. A Phủ – Mị có cùng một cảnh ngộ, cùng là người đi ở gạt nợ cho nhà thống lí. A Phủ bị trói mấy đêm rồi nhưng đêm nào cũng vậy. Mị dậy đốt lửa sưởi và thản nhiên như không có gì bên cạnh. Mỗi đêm, đêm nào cũng vậy khi ngọn lửa bùng, Mị nhìn sang biết A Phủ còn sống nhưng Mị không hề nói năng gì. “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Bởi vì tâm hồn Mị đã khép kín và câm lặng rồi. Mặc dù, với ngọn lửa to như thế, hồng như thế cô vẫn cảm thấy lành lạnh, cô đơn. Sự cô đơn ấy cô đã từng nếm thử nhưng bây giờ nó cay và đắng lạ. Khi chỉ biết ngồi một mình bên bếp lửa. Dường như sức sống trong tầm hồn cô đã cạn dần. Không, ngược lại, sức sống trong cô lâu nay bị dồn nén quá sức bây giờ nó để vỡ tung ra khi “Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Dòng nước mắt ấy đã làm trỗi dậy trong Mị tình thương những người cùng cảnh ngộ. Mị chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cột nhà như thế kia, cũng “nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được”. Cũng như lần trước, một khi ý thức sống trỗi dậy, thì Mị lại nghĩ đến cái chết, nhưng lần này là một cái chết oan ức, vô lí của một người khác. Vì mê tín, vì đã là người của nhà thống lí, Mị cam chịu chết ở cái nhà này. Còn A Phủ việc gì phải chết, A Phủ phải được sống. Sau ý nghĩ ấy lòng thương người lớn hơn thương thân. Mị đã cam chịu chết thì cô sợ gì mà không cứu A Phủ. “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cần biết đợi ngày mà rủ xuống ở đây thôi- Người kia việc gì phải chết”.
Rõ ràng, Mị đã suy nghĩ kỹ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô sẵn sàng chịu trói thay cho A Phủ. Nghĩ đến lúc rơi vào tình cảnh ấy Mị cũng không thấy sợ. Ngược lại lúc này cô bình tĩnh, can đảm hơn bao giờ hết. Đến giờ phút này thì việc rút dao cắt dây trói cho A Phủ là một việc phải làm tất nhiên có thể xảy ra. Đó là hành động tự bản thân Mị chứ không phải là sự phát triển của tình huống truyện do tác giả sắp đặt. A Phủ đã được giải thoát, lòng thương của Mĩ đã chiến thắng còn Mị vẫn đứng trong bóng tối. vẫn biết rằng Mị không sợ hình phạt của thống lí, không sợ phải chết thay cho A Phủ vì chết đối với Mị là một giải thoát, Mị vốn nghĩ thế. Nhưng thấy A Phủ đã chạy đi rồi, chạy đi đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tỉnh hẳn. Mị không muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống “Mị cũng vụt chạy ra” theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình. Hành động cởi trói cho A Phủ bắt nguồn từ một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong tính cách của Mị, không một uy vũ nào có thể dập tắt nổi. Hành động chạy theo A Phủ là một hành động thật bất ngờ nhưng rất hợp lí. Lần này, thì sức sống mãnh liệt của Mị đã chiến thắng. Mị đúng là con người hơn con người thật. Đêm cuối cùng ở nhà thống lí Pá Tra, đã thành thật xin A Phủ cho đi theo, lời xin ấy cũng chính là ngọn lửa lâu ngày âm ỉ đang được bùng cháy.
Nhân vật Mị đã thu hút được người đọc bằng chính cái sức sống tiềm ẩn ấy . Tô Hoài đã rất thành công khi tạo dựng nhân vật này. Một cô Mị xinh đẹp, tài hoa, yêu đời, ham sống và luôn luôn nghĩ đến cái chết vì không được sống cho ra sống. Một cô Mị câm lặng, khép kín và luôn luôn bùng nổ những hành động chống đối mãnh liệt. Mâu thuẫn đấy mà lại hết sức thống nhất, tự nhiên, hợp lí. Người đọc cảm giác ấy là nhờ cách kể truyện rất sinh động, kết cấu hình tượng chặt chẽ và nhất là nhờ những chi tiết nghệ thuật có tính biểu cảm cao: một lỗ cửa sổ, “mờ mờ trăng trắng” soi rọi cuộc đời của cô con dâu gạt nợ nhà thống lí một tiếng sáo gọi bạn tình đêm xuân bồi hồi, tha thiết như giục giã, như gọi mời những hơi rượu say nồng đêm xuân; những giọt nước mắt trong đêm cuối cùng ở nhà thống lí… ở Mị có sự dửng dưng vô cảm, bên cạnh lòng thương xót xâu xa; có lúc lãng quên tất cả và cũng có lúc trào dâng nỗi nhớ thiết tha bồi hồi. Từ chỗ không thấy sợ Mị bỗng trở thành người hoảng hốt. Tất cả trạng thái đối nghịch ấy của tâm hồn Mị đều được Tô Hoài dẫn dắt, phân tích một cách hợp lí tưởng như không có thể nào khác được.
Đọc Vợ chồng A Phủ ta thấy Mị là bức chân dung tĩnh lặng. Hầu như trong thời gian nhà thống lí Mị chỉ nói có vài ba câu. Nhưng ẩn chứa trong tâm hồn câm lặng ấy là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch suối ngầm trong mắt. Tiếp xúc với Vợ chồng A Phủ ta nhớ, ta yêu một cô Mị ở Hồng Ngài càng bị đọa đầy, đau khổ càng khao khát muốn vươn lên một cuộc sống tốt lành. Một cô Mị tiềm tàng sức sống mãnh liệt để có thể hiểu hơn một cô Mị du kích Phiềng Sa sau này.
Nghị luận Trong một bức thư bàn luận về văn chương của Nguyễn Siêu
Nguyễn Văn Siêu nổi danh chính là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát từng được người đời tôn thờ lên thành “Thần Siêu, Thánh Quát”. Trong văn chương thì Nguyễn Văn Siêu cũng là một trong những văn sĩ thật tài năng, ông có nhiều những cống hiến để đời. Và kho bàn luận về văn chương thì ông cũng đã đưa ra quan điểm của mình về văn chương một cách khá rõ ràng “Văn chương có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Quan niệm này thực sự cũng tốn nhiều giấy mực, tranh cãi của nhiều người.
Đầu tiên ta cũng cần phải hiểu được vì sao Nguyễn Văn Siêu nói được “Văn chương chuyên chú ở văn chương”. Ý của câu nói này đó chính là để chỉ loại văn chương chỉ chăm chút gò câu đẽo chữ, và nhà văn luôn luôn cố gắng để có thể tìm những chữ thật “kêu”, những chữ thật “đắt” sử dụng các điển tích cổ bí ẩn…nói chung đấy là loại văn chương thuần tuý, và đồng thời cũng chính là nói đến loại “văn” không cần biết nội dung. Còn xét về tư tưởng, là loại văn chương thuần túy về hình thức mà chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy. Bên cạnh đó thì ý của câu “Văn chuyên chú ở con người” chính là loại hình văn chương mà tác giả cũng đã cố gắng viết lên từ cuộc sống của con người, hướng đến con người sao cho con người chính là chủ thể, là tung tâm của tác phẩm văn học.
Nói một cách khác thì nó cũng lại còn có tác dụng đó là “làm cho người gần người hơn”. Nói tóm lại ta có thể hiểu được rằng ý của cả câu nói mà Nguyễn Văn Siêu như nói rằng văn chương chỉ có giá trị khi nó được lấy nguồn cảm hứng từ chính con người. Từ con người, và cũng lại vì con người thì thức văn chương đó mới có giá trị. Và người ta vẫn luôn luôn tự nhủ rằng “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ”. Nguyễn Văn Siêu dường như cũng lại thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đem đến một cái gì tốt lành cho con người cà và loại văn chương như thế là loại “không đáng thờ”. Đã không đáng thờ tức là không đáng để đọc, để học hỏi và nó còn không được coi là văn chương nữa. Văn chương cũng luôn cần đến khối óc của những vị kỹ sư tâm hồn chứ đâu cần những “người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho”.
Thực sự nếu như không giao cảm với đời, văn chương tuôn ra ngọn bút không bất đầu từ lòng thương cảm sâu sắc mà vì đời thì chỉ là văn chương mà dường như nó cũng chỉ “một tấc đến trời” mà thôi. Người nghệ sĩ cũng làm sao có thể sáng tác được một tác phẩm có giá trị không thể nào có thể ngồi trong cung điện mà viết về đời sống kham khổ của những người dân trong xã hội kia. Và như ai đó đã nói câu “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”. Bởi “Nhà văn chính là người hư ký trung thành của thời đại” cho nên nhà văn phải đi ra mà chứng kiến để có thể viế về cuộc sống, viết về con người. Văn học luôn luôn phải ánh những biến cố, những điều mới lạ, lịch sử,… và đích đến nó chính là con người. Mỗi bài học, mỗi tác phẩm văn học hay “đáng thờ” phải luôn luôn hướng đến con người và cũng vì con người. Vì nếu tác phẩm không viết về con người, không hướng đến con người không mang lại những giá trị chân – thiện – mỹ thì chắc chắc rằng tác phẩm văn học đó dường như cũng nhanh chóng đi vào quên lăng mà thôi. Còn ngược lại những tác phẩm kinh điển như vẫn còn tồn tại với thời gian năm tháng, hết thế hệ này đến thế hệ kia thì nó lại luôn lấy cảm hứng từ con người và vì con người.
Nếu như mà văn chương chỉ biết lấy chủ nghĩa duy mĩ làm đích thì thử coi có đáng thờ cơ chứ? Nói như Ngô Thi Sĩ thì “Văn chương phải có quan hệ với đời”, làm sao có thể tách bạch cuộc đời với nghệ thuật được. Người ta cũng nhận thấy được nhà văn L. Tônxtôi vĩ đại bởi kiệt tác “Chiến tranh và hoà bình” thì ông cũng đã thấu hiểu được cảnh chinh chiến, ông cũng đã từng một thời xông pha nơi chiến trận tìm hiểu, ghi chép. Chắc chắn nếu như người thi sĩ mà lại “đóng cửa phòng văn hì hục viết thì làm sao một tác phẩm “Chiến tranh và hoà bình” được trở thành một tác phẩm kinh điển được cơ chứ? Và nếu như mà không gắn bó, đau đời Nguyễn Du có một “Đoạn trường tân thanh” nức tiếng không? Văn chương không thể cứ đóng phòng văn mà tìm được những mỹ từ hay, thật nghệ thuật thì đã thành văn chương được. Nó chỉ là những từ sáo rỗng và thậm chí người ta đọc cũng cảm thấy sự khó hiểu, khó chịu. Làm sao có thể viết lên được những lời lễ mà mang được sự tin cậy khi chính bản thân nhà văn còn chưa được trải quan, chưa được biết đến.
Người đọc cũng có thể thấy được chính quan niệm của Nguyễn Văn Siêu gần giống như những văn học hiện thực Việt Nam vào chính giai đoạn văn học 1930-1945. Ở giai đoạn văn học này cũng đã lại lấy con người làm chủ thể sáng tạo, ngòi bút hướng vào con người và như vậy tác phẩm viết ra mới chiếm được nhiều tình cảm của mỗi người. Bởi sáng tác văn chương cũng như một tấm gương vậy, người ta có thể nhìn thấy chính họ trong đó, những tác phẩm văn chương nói lên được nỗi lòng của chính họ và đây mới thực sự là “văn chương đáng thờ”
Thực sự để mà nói thì nhắc đến “Văn chương đáng thờ” Nguyễn Văn Siêu dường như cũng đã muốn nói đến cái giá trị của văn chương. Giá trị của nghệ thuật đi sâu vào thế giới tâm hồn của con người thì chúng ta cũng có thể nhận thấy được chính văn chương phải vì con người, văn chương cũng phải vì cuộc sống con người. Văn chương luôn luôn phải hướng đến Chân – Thiện- Mĩ phải khơi ở lòng người những tình cảm nhân ái. Văn chương phải hoàn thành nhiệm vụ của chính nó đó là cũng có nhiệm vụ là phải đem đến cho con người một cái nhìn thật mới từ trong những cái đã quá quen thuộc.
Trong các tác phẩm văn chương thì làm sao mà có một thứ văn chương nào lại không lấy con người làm đối tượng cơ chứ? Nói như nhà văn M.Gorki đã khẳng định : “Văn học là nhân loại” cho nên chúng ta cũng cần phải hiểu rằng không thể tách rời văn chương và con người cũng văn chương như tách rời nội dung và hình thức biểu đạt của nó được. Đã là văn chương thì nó cũng phải mang vẻ đẹp của văn chương nghệ thuật trước đã, nó phải là một tác phẩm nghệ thuật trước thì mới có thể truyền tải được nội dung. Giống như một cái chai rượu vậy, phải có cái vỏ thì rượu – nội dung bên trong mới được chứa đựng. Và hình dạng vỏ như nào thì nội dung cũng chịu tác động ít nhiều.
Một nhà văn giỏng là một nhà văn biết hòa quyện được mặt nội dung cũng như hình thức của tác phẩm văn học với nhau. Viết về con người nhưng phương thức biểu đạt ra như thế nào để người đọc tiếp nhận được mới là cái tài của nhà văn. Chính vì thế mà chúng ta không nên xem nhẹ nội dung hay hình thức quá. Tuy nhiên đánh giá chung của Nguyễn Văn Siêu cũng vẫn còn đúng đắn khi nói như muốn nhắn nhủ những nhà văn hãy mở lòng ra, đi thực tế và viết những tác phẩm hướng đến con người.
Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu như cũng nhận được đông đảo những phản ứng trái chiều của nhiều giới văn sĩ với hai trường phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh”. Và một tác phẩm có thể đạt đến đỉnh cao, tác phẩm “đáng thờ” thì nó phải mang đến sự hai hòa về cả hai phương diện này. Dù sao đi chăng nữa ý kiến của văn sĩ cũng thật đáng học hỏi cho thế hệ người nghệ sĩ sáng tạo ngôn từ nay và mai sau học tập.
Nghị luận ý kiến Phong cách chính là người nhà văn Buy-phông
Con người sinh ra không phải ai cũng giống nhau, mỗi người đều có những khác biệt tạo nên cái riêng của mình cái riêng đó thường được gọi là phong cách. Như nhà văn Pháp nổi tiếng Buy -phông có viết:”phong cách chính là người”
Đúng vây! Phong cách là người, phong cách của một người phản ánh chính con người đó. Vậy chúng ta hiểu phong cách là gì? Theo nghĩa hẹp, phong cách là là cách thức riêng của một tác giả, một nghệ sỹ thể hiện trong sáng tạo một tác phẩm, công trình văn hóa, nghệ thuật. Đó là những biểu hiện mang tính chất hệ thống về tư tưởng nghệ thuật, các đặc trưng mang tính thẩm mỹ, ổn định về nội dung và hình thức thể hiện tạo nên giá trị độc đáo của tác giả. Theo nghĩa rộng, Phong cách là phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành nề nếp ổn định của một người hoặc một lớp người được thể hiện trong tất cả hoạt động sống của chủ thể, tạo nên những giá trị riêng, những đặc trưng của họ. Phong cách được hiểu như một nguyên tắc điều chỉnh hành vi con người và trở thành thói quen, nề nếp ổn định khi suy nghĩ, diễn đạt và hoạt động thực tế. Đối với mỗi người thì phong cách của họ gần với đặc điểm truyền thống, thói quen, hoàn cảnh sống quy định, đồng thời mang dấu ấn cá nhân rất rõ. Mỗi người, từ bé thơ lớn lên đã có phong cách của mình. Phong cách nào cũng có sự tự tin của mình.
Trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta được nghe rất nhiều về phong cách, nào là phong cách thời trang, phong cách sống, phong cách nghệ thuật,… Nói về trang phục, chúng ta cũng thường nghe thấy rất nhiều người nghe đến việc nhận xét phong cách ăn mặc của một người chẳng hạn như phong cách babadoll, phong cách bánh bèo,.. Theo những lời nhận xét đó ta có thể thấy, mỗi người hoặc mỗi lớp người đều chọn cho mình một phong cách ăn mặc riêng mà họ cảm thấy yêu thích. Có người chọn phong cách sexy gợi cảm, có người lại thích phong cách dễ thương, có người lại thích phong cách giản dị, trong sáng…Không chỉ trong trang phục thường ngày ta còn thường bắt gặp phong cách của những ca sĩ. Phong cách của ca sĩ được thể hiện trong những bài hát của họ. Người ca sĩ hát nhạc ballad trữ tình sẽ khác với người hát nhạc rock hay nhạc cách mạng…Mỗi người ca sĩ ngoài gu ăn mặc, người ta sẽ nhớ đến họ theo một dòng nhạc nào đó. Mà chính những điều đó làm nên phong cách riêng của một người ca sĩ.
Trong văn học cũng vậy, phong cách phong cách của nhà văn được thể hiện trên cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật. Trong nội dung, phong cách nhà văn in đậm trong quan niệm về cuộc sống con người, việc lựa chọn đề tài, xây dựng chủ đề, cách lí giải vấn đề về cuộc sống con người… Có thể thấy rõ điều này ở nhiều nhà văn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Hồ Chí Minh… Nguyễn Tuân thường nhìn mọi sự vật, sự việc dưới góc độ của sự tài hoa. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà văn tìm thấy sự tài hoa của những nhà Nho hết thời trong những thú chơi tao nhã của họ: thả thơ, uống trà, ngâm vịnh… Sau Cách mạng, nhà văn lại say mê với sự tài hoa của những con người Việt Nam trong lao động, sản xuất… Nam Cao lại khác. Trước Cách mạng, ông đau đáu với đề tài về những người nông dân Việt Nam nô lệ bị tha hóa về tinh thần, nhân phẩm hay những nhà trí thức Việt Nam quằn quại trong nỗi đau vì bị “áo cơm ghì sát đất”… Về nghệ thuật, phong cách nhà văn cũng được thể hiện đa dạng ở nhiều phương diện: phương thức biểu hiện, lựa chọn thủ pháp nghệ thuật, cách tổ chức kết cấu, tổ chức ngôn ngữ… Điều này cũng rất dễ nhận biết đặc biệt ở những tác giả lớn. Nhà thơ Tố Hữu thường chọn thể thơ lục bát, giọng điệu tâm tình ngọt ngào để thể hiện tình cảm tha thiết, chân thành của nhân vật trữ tình. Nhà văn Nam Cao lại rất dễ “bị” nhận ra bởi lối kể chuyện đảo trình tự tuyến tính hiện đại hay cách liên kết đoạn văn rất tài tình… Mỗi nhà văn lại có những ý tưởng độc đáo khác nhau trong cách thể hiện tác phẩm của mình. Và với độc giả, khi đọc một truyện ngắn, thưởng thức một bài thơ… không gì thích thú là việc phát hiện ra những nét đặc sắc về phong cách của các tác giả. Những nhà văn, nhà thơ có tài năng thực sự mới có thể định hình phong cách riêng của mình. Và giữa phong cách của mỗi tác giả lại có mối quan hệ chặt chẽ tới bản thân cá tính mỗi nhà văn. Trong văn học, phong cách được thể hiện sinh động như một thực thể bộc lộ những quan niệm cá nhân về văn học. Trong truyện ngắn của mình, Nam Cao luôn có vẻ khách quan, hờ hững với nhân vật. Ông gọi họ là “y”, là “thị”, miêu tả họ với những hình hài xấu xí, thậm chí là ghê rợn (đặc biệt là những người nông dân). Nhưng đằng sau những trang văn tưởng như lạnh lùng, khinh thị ấy là tấm lòng đồng cảm thấu suốt là tình thương đến nhói buốt của một tấm lòng đồng ái, đồng chủng. Ngoài đời, con người Nam Cao cũng có dáng vẻ giống như giọng điệu văn chương của ông trong truyện ngắn. Nhắc đến Nam Cao, những người bạn văn nhớ đến một dáng vẻ trầm lặng, ít nói, nhưng thực chất, ẩn đằng sau dáng vẻ phẳng lặng, im ắng ấy là một tinh thần sôi nổi, quyết liệt. Chỉ có những tính cách mạnh mẽ mới có thể phát biểu thế này: “Sống đã rồi hãy viết”! Phong cách của nhà văn in đậm lên từng trang viết. Đến lượt mình, phong cách văn học của mỗi tác giả lại in sâu vào lòng người đọc tạo nên mối đồng cảm sâu sắc giữa những nhà văn, nhà thơ và những độc giả chân thành.
Tất cả những phong cách trong các lĩnh vực, khía cạnh đời sống con người đều nói lên một điều rằng, phong cách chính là con người. Phong cách nó phản ánh một con người, nó tạo nên sự khác biệt giữa con người với nhau, tạo nên sự đa dạng của cuộc sống. Điều đó một lần nữa khẳng định ý kiến của nhà văn Pháp Buy -phông là đúng và có ý nghĩa.
✅ Văn mẫu lớp 12 ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐
Leave a Reply