Mục lục bài viết
Đề bài: Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.
Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt – mẫu 1
Trong tác phẩm Vợ nhặt người vợ không thực sự được khai thác nhiều. Nhưng với nhân vật này, Kim Lân cũng gửi đến những thông điệp đầy ý nghĩa và nhân văn, thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Người vợ nhặt được xây dựng là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng quẫn. Thị không có bất cứ gia sản gì, ngay cả cái tên cũng không có, thị chỉ được gọi một cách chung chung và đầy rẻ rung là vợ nhặt. Thị không có nhà cửa, hai lần gặp Tràng chỉ thấy thị vất vưởng nơi đầu đường, xó chợ. Thị không có họ hàng, không có nghề nghiệp. Trong hoàn cảnh toàn dân Việt Nam đang phải oằn mình chống lại nạn đói, thị không có bất cứ một chỗ dựa nào, thị sống trong sự dồn đuổi của cái chết, hàng ngày, hàng giờ, cái đói đã biến thị trở nên xanh xao, hốc hác, gò má cao, không còn chút sự sống.
Chính hoàn cảnh bị đẩy đến bước đường cùng, đã khiến cho thị đánh mất lòng tự trọng của bản thân. Nỗi ám ảnh về cái đói, cái chết không chỉ vắt kiệt sự sống của người đàn bà nghèo mà còn sói mòn nhân cách, nhân phẩm của thị, nó được thể hiện rõ qua hai lần gặp gỡ với Tràng. Lần thứ nhất, gặp Tràng vốn là người không quen biết, chỉ vì một câu hò vu vơ, Thị đang ton ton chạy ra, híp mắt cười tình, rồi đẩy xe bò cho Tràng. Mãnh lực của miếng ăn quá lớn, khiến thị đánh mất sự e dè, thẹn thùng vốn có. Lần thứ hai gặp lại sự trơ trẽn, vô duyên đã đáng mất cả long tự trọng. Sau lần gặp gỡ đầu, không có bất cứ một lời hẹn ước nào, nhưng khi gặp lại Tràng, thi sầm sập chạy đến, đứng trước mặt mà nói: “Điêu! Điêu. Người thế mà điêu”. Và chỉ đến khi nhận được lời mời cho đi ăn, thì thị không còn chút ý tứ, ngồi xuống cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc. Những câu văn ngắn diễn tả hành động ăn uống thô tục, lỗ mãng của thị. Nỗi ám ảnh của cái đói đã khiến thị trở nên táo bạo, liều lĩnh. Nhân cách, lòng tự trọng là đáng quý nhất với con người đã bị bán rẻ vì miếng ăn. Đó là hiện thực đau xót mà không chỉ cô vợ nhặt mới vậy, mà rất nhiều người dân Việt Nam đã rơi vào tình cảnh này. Và liều lĩnh nhất là chỉ một câu nói đùa của Tràng, cô đã theo anh về làm vợ. Trong hoàn cảnh không còn đâu để bấu vúi, thì dù có là vợ nhặt cô cũng chấp nhận để thoát khỏi sự truy đuổi của thần chết.
Cũng như nhân vật Tràng, sau khi lập gia đình, người vợ nhặt đã có sự thay đổi vô cùng lớn. Đầu tiên là sự thay đổi tâm lí, tính cách, trên đường về nhà, trước sự để ý của những người dân, thị cắp cái thúng con, e dè, ngại ngùng đi cạnh Tràng. Những biểu hiện ở dáng điệu đó cho thấy sự xấu hổ, ngượng ngùng trong tâm lí của thị. Đó cũng là biểu hiện đầu tiên đánh dấu sự trở lại của nữ tính, sự trơ trẽn, chỏng lỏn đã không còn. Trong lòng cô vợ nhặt còn dấy lên niềm lo lắng cho tương lai. Về đến nhà, nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy những cỏ dại vây xung quanh, cái ngực lép của thị nhô lên, nén một tiếng thở dài. Vào đến nhà, cô ngồi ghé ở mép giường, tay ôm chặt cái thúng. Trước mặt mẹ chồng, cô lễ phép chào hỏi, tay mâm mê tà áo đã rách bợt đi. Những hành động, cử chỉ của thị thể hiện một tâm lí dễ hiểu đó là sự e thẹn khi lần đầu tiền đối diện với mẹ chồng. Song cũng bộc lộ phần nào sự lễ phép, dịu dàng trong cách giao tiếp với người lớn tuổi. Những biểu hiện này một lần nữa cho thấy, cái chỏng lỏn chỉ là sản phẩm của sự xô đẩy của hoàn cảnh, còn trong thẳm sâu bản chất thi vẫn là tâm hồn đầy nữ tính.
Sự thay đổi rõ nhất trong tính cách chính là buổi sáng đầu tiên sau khi thị lấy chồng. Qua cái nhìn của nhân vật Tràng, thị hôm nay đã khắc hẳn, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn chao chát, chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Những thay đổi trong cảm nhận của Tràng xuất phát từ những việc làm hết sức gỉn dị mà ý nghĩa mà cô vợ nhặt đã làm: dậy sớm, cùng mẹ dọn dẹp, quét tước nhà cửa,… Thị đã đem đến màu sắc tươi sáng vào căn nhà lạnh lẽo, u ám của Tràng. Tất cả những hành động đó cho thấy sự đảm đang, tháo vát của cô cùng cho thấy thị thực sự yêu thương, trân trọng tổ ấm gia đình, và có khát vọng mãnh liệt vào hạnh phúc gia đình.
Không chỉ biến chuyển trong tính cách mà thị còn có sự biến chuyển trong nhận thức. Hạnh phúc đối với người vợ nhặt quả không hề dễ dàng, bởi sự dồn đổi của cái đói và cái chết. Đêm tân hôn của hai vợ chồng cũng phải diễn ra trong tiếng khóc tỉ tê của những gia đình có người chết. Bữa cơm đầu tiên đón cô dâu mới là nồi cháo cám mặn chát, lõng bõng là nước. Nhưng chính lúc ấy, ttong tâm hồn thị vẫn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Không phải ngẫu nhiên, trong ba nhân vật Kim Lân lại chọn thị chứ không phải hai nhân vật còn lại nói về khởi nghĩa, phá kho thóc Nhật. Có lẽ bởi một người dám đánh đổi tất cả, kể cả trở thành vợ nhất để được sống, thì khát vọng sống, hạnh phúc ở họ là không thể huy diệt. Dù không nói rõ về tương lai, nhưng ở một con người ham sống, ở một tinh thần khỏe khoắn như người vợ nhặt, Kim Lân cho thấy tinh thần hăng hái, chắc chắn thị sẽ theo cách mạng.
Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân đặt vào tình huống hết sức độc đáo, từ đó nhân vật bộc lộ tâm trạng, cách hành xử của bản thân. Nhân vật được tập trung khắc khọa ở cử chỉ, hành động qua đó làm bật lên vẻ đẹp của người vợ nhật.
Bằng ngòi bút tin yêu và trân trọng, Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất hủ của văn học. Người vợ nhặt chính là nạn nhân tiêu biểu nhất của nạn đói năm 1945, nạn đói đã làm nhòe mờ nhân cách, lòng tự trọng của nhân vật. Nhưng ẩn sâu trong con người ấy vẫn là một người phụ nữ đầy dịu dàng, nữ tính, biết vun vén và có khao khát hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là người có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Dàn ý Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Kim Lân
– Giới thiệu tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, chủ đề của tác phẩm “Vợ nhặt”
– Giới thiệu nhân vật người vợ nhặt, nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt
II. Thân bài
a) Phân tích thân phận và cảnh ngộ của người Vợ nhặt
– Vợ nhặt được giới thiệu là một người không tên tuổi, không quê quán họ hàng, xuất hiện giữa chợ tỉnh.Quần áo rách như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
– Là người phụ nữ không họ tên, Thị là hình ảnh tiêu biểu cho những người dân đói khổ khi đó.
– Không có việc làm cụ thể, cuộc sống bấp bênh, cái đói đã hành hạ và đẩy chị đến bờ vực của cái chết. Chỉ vài ba câu nói bâng quơ của Tràng mà Thị theo Tràng về làm vợ. Cái đói đã biến Thị trở thành kẻ trơ tráo liều lĩnh cùng đường.
b) Phân tích tâm trạng của người Vợ nhặt
* Trên con đường trở về nhà với chồng.
– Chị về nhà chồng trong tình cảnh thật thảm hại, theo không Tràng vì Tràng cho ăn đó là hành động thật liều lĩnh. Cái đói quay quắt đã dồn đẩy chị, làm cho chị đánh mất cả sĩ diện và lòng tự trọng.
– Trên con đường trở về nhà chồng, người phụ nữ này không tự tin vì thân phận của mình, đồng thời có cả sự tủi phận, ngại ngùng, lo âu. Thị cảm thấy khó chịu trước lời chêu chọc của những người dân xóm ngụ cư: “người đàn bà có vẻ khó chịu lắm, chị nhíu đôi lông mày lại, sắp lại tà áo, chân nọ bước díu vào chân kia”, tâm trạng ấy thể hiện người con gái này suy tư về con đường ở trước mắt, đồng thời không dấu được niềm khao khát hạnh phúc.
– Thị thay đổi hẳn, vẻ đanh đá, cong cớn đã biến mất (đó chỉ là vẻ bề ngoài để chống chọi với đời) con người thật của Thị hoàn toàn khác.
* Về đến nhà.
– Thị mang một tâm trạng ngại ngùng của một nàng dâu mới, buồn thủi cho gia cảnh nhà chồng “Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn xung quanh cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài…”
– Thị buồn và thất vọng, lo lắng khi thấy gia cảnh nghèo khó của Tràng, vì khi theo Tràng chị muốn trốn chạy cái đói nhưng cái đói không chừa một ai.
* Sáng hôm sau.
– Chỉ qua một đêm về làm dâu, ở người con gái này đã có sự thay đổi rất nhanh, Thị đã trở thành người đàn bà nhanh nhẹn, tự tin, Thị chủ động dọn dẹp quét tước nhà cử. Hơn thế nữa, sự có mặt của người đàn bà trong ngôi nhà này chính là mối gắn kết tình cảm trong gia đình. Với khả năng của mình, Thị đã đem lại hạnh phúc cho gia đình này. Ở Thị còn có thái độ lễ phép với mẹ chồng.
– Thị nhanh chóng hòa nhập vào không khí gia đình. Thị cảm nhận được tình thương của mẹ chồng, dù nghèo nhưng hiểu và thương Thị
– Trong bữa ăn ngày đói, khi nhận bát cháo cám “hai con mắt Thị tối lại” “Thị điềm nhiên và vào miệng” vì không nỡ làm mất đi niềm vui tội nghiệp của người mẹ già khốn khổ.
– Thị là người đã dấy lên niềm tin mới về cách mạng, tạo niềm tin hi vọng cho chồng khi kể chuyện ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không còn đóng thuế nữa và Việt Minh đi phá kho thóc Nhật chia cho người đói.
* Thị là nhân vật đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm.
c) Giá trị nghệ thuật
– Xây dựng tình huống truyện độc đáo
– Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc
– Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, thể hiện tâm lí nhân vật
– Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi
III. Kết bài
– Bằng bút pháp tả thực cùng cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, tái hiện diễn biến tâm lí nhân vật một cách cụ thể. Kim Lân đã cho người đọc thấy được hình ảnh của người nông dân nghèo nhưng luôn giàu tình yêu thương. Bóng dáng Thị hiện ra tuy không lộng lẫy, không hào nhoáng nhưng gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Nhân vật ThỊ đã mang đến một làn gió mới cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ.
Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt – mẫu 2
Kim Lân là một nhà văn có nhiều trang viết gắn liền với cuộc sống của những người nông dân Bắc bộ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm viết về con người và mảnh đất này như: “Làng”, “Vợ nhặt”, “Con chó xấu xí”. Tác phẩm “Vợ nhặt” được trích từ tập truyện “Con chó xấu xí” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp năm 1945 vừa là bài ca ca ngợi về vẻ đẹp tình người và khát vọng sống, niềm tin vào tương lai của người lao động nghèo. Dường như nạn đói định mệnh ấy đã làm cho con người ta quên đi cả danh dự, họ bất chấp để được sống, thậm chí chuyện hạnh phúc cả đời cũng tặc lưỡi cho qua. Nhân vật Thị là một điển hình trong số những nạn nhân xấu số của nạn đói đó.
Tác phẩm “Vợ nhặt” được viết ngay sau Cách mạng với tên gọi “Xóm ngụ cư”. Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại, tác giả đã viết lại thành “Vợ nhặt”. Tác phẩm có nhiều nhân vật nhưng nhân vật người “vợ nhặt” là nhân vật mang lại nhiều thương cảm nhất cho người đọc. Nhân vật này được xây dựng dựa trên sự đối lập giữa hình thức bên ngoài và phẩm chất bên trong, giữa trước và sau khi về làm vợ Tràng.
Trước hết, hình ảnh người vợ nhặt hiện lên là một “người phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh”. Vì đói mà sẵn sàng bất chấp cả thể diện để có được miếng ăn để sống được qua ngày. Ẩn sau cái vẻ ngoài bất cần ấy Thị là một người đầy “nữ tính và giàu khát vọng”. Điều này đã góp phần tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ và lòng ham sống, khát vọng sống vươn lên hướng đến ánh sáng ngày mai. Tất cả những điều này đã mang đến cho người đọc cái nhìn đúng đắn về người vợ nhặt nạn nhân của nạn đói năm 1945.
Đi suốt chiều dài của tác phẩm đúng là người vợ nhặt là “người phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh”. Thị là một trong số vô vàn các nạn nhân của nạn đói năm Đinh Dậu. Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt của anh Tràng chẳng biết từ đâu xuất hiện, không có cái tên để gọi, không có nguồn gốc sinh thành, không quê hương bản xứ, mọi thứ về Thị chỉ là một con số không tròn trĩnh. Không phải là nhà văn không thể đặt cho Thị một cái tên mà bởi vì Thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “Thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng chính nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc, đã làm nên tiếng vang cho truyện ngắn Vợ Nhặt.
Thị bị cơn bão nạn đói thổi cho phiêu dạt đến miền đất này, cuộc sống lê la tháng ngày không biết đến ngày mai nếu như không có cái lần anh Tràng “hò một câu chơi cho đỡ nhọc” ấy. Thị xuất hiện với ngoại hình không xinh đẹp, hấp dẫn. Chân dung của Thị được gợi tả với “những nét không dễ nhìn”. Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Phải chăng, sức tàn phá của nạn đói đã khiến Thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng tội nghiệp hơn nữa, nó đã làm cho người phụ nữ ấy trở nên thê thảm hơn bao giờ hết. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của Thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà Thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói đã xui khiến Thị quên đi ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Được cho ăn, Thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Với Thị lúc đó miếng ăn để duy trì cuộc sống còn cao hơn nhân cách, nếu như chết thì nhân cách có cũng chẳng để làm gì .
Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thị không trả lời mà lặng lẽ theo Tràng về, Thị đã gián tiếp đồng ý, một sự đồng ý không hề có sự băn khoăn hay phân vân gì cả, dường như chuyện dựng vợ gả chồng trở nên dễ dàng và rẻ rúng hơn bao giờ hết. Cái giá của người phụ nữ ít nhất cũng là “Ba trăm một mụ đàn bà/ Mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi”. Ở đây, Thị đã “đại hạ giá” xuống còn bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một thúng con. Thị nào có biết Tràng là ai, tốt xấu như thế nào, quê quán, gốc tích ra sao? Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc là Thị đã theo về làm vợ anh Tràng. Phải chăng Thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của Thị xuất phát từ lòng khao khát được sống. Khi đã cận kề cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, Thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Tinh thần lạc quan yêu sự sống của Thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: “Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
Trên đường về nhà chồng, trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”. Đấy là nữ tính cũng là hình ảnh của một người phụ nữ giàu lòng tự trọng. Thực ra, cái đói đã đẩy đưa Thị phải theo Tràng. Cơn bão tố cuộc đời đã xô đẩy thân phận cùng cực ấy ngã vào đôi vai người đàn ông thô kệch. Nhưng biết đâu đấy lại là cái may mắn của Thị. Bởi cũng biết đâu, nếu không có câu bông đùa ấy của Tràng, ít bữa nữa thôi, Thị có khi lại trở thành thây ma giữa nạn đói khủng khiếp này.
Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả nét tâm lý, tính cách của Thị. Nhà văn như lọt vào trong nỗi thẳm sâu tâm tư tình cảm ấy của người phụ nữ năm đói. Ông như nhìn thấy cả nỗi tủi nhục của kiếp người, thấy cả trong bước chân liêu xiêu, bước díu vào nhau kia là cả tủi hờn, xấu hổ. Cả tiếng thở dài não nuột kia cũng đáng để ông xót xa và mến yêu. Ấy là lúc Thị về đến nhà Tràng, nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, Thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà Thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách.
Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của Thị về gia cảnh nhà chồng đó phải chăng là Thị đã ý thức được phận trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của Thị thật đáng quý biết bao. Hay chính Kim Lân đã thổi vào tâm hồn Thị niềm lạc quan ấy để Thị vững lòng cho một cuộc sống ngày mai. Quả thật là Thị không tìm thấy ở Tràng một chút gì gọi là nương tựa về vật chất nhưng Tràng chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho Thị vào lúc này. Cuộc sống này xét về tình nghĩa như thế cũng đáng để sống lắm chứ.
Đến lúc này người đọc chợt nhận ra, bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, Thị lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan và cũng giàu lòng tự trọng. Vào trong nhà, Thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường. Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Thị thể hiện mình là một nàng dâu hiếu thảo, lễ phép với mẹ chồng..
Sáng hôm sau, Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, sắp xếp lại nhà cửa, ngôi nhà của bà cụ Tứ giờ đây như được hồi sinh.. Đến đây, người đọc dễ nhận thấy: bao nhiêu vẻ “chỏng lỏn”, “sưng sỉa” của Thị trước kia không còn nữa. Dường như Thị đã lột xác trở nên nữ tính hơn. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đủ đầy sự thay đổi tuyệt vời ấy “Tràng nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Lúc này Tràng cảm thấy vợ mình đã thật sự thay đổi. Chính sức mạnh của tình yêu đã cảm hóa và làm thay đổi con người Thị.
Trong bữa cơm đầu đón nàng dâu: Dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng Thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã làm cho không khí gia đình ấm cúng, thân thương hơn bao giờ hết. Thị chính là ngọn gió mát lành thổi vào cuộc sống của gia đình Tràng, thổi vào cả tâm hồn người đàn ông phu xe cục mịch, thổi cả vào khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà cụ Tứ để hôm nay trông bà “rạng rỡ hẳn lên”. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, Thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Sự hiểu biết này của Thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là Người truyền tin cách mạng.
Có thể nói, người vợ nhặt được miêu tả ít, song đó lại là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thiếu Thị, Tràng vẫn chỉ là Tràng của ngày xưa; bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Chính Thị đã thổi một luồng sinh khí, một luồng gió mới vào cuộc sống tối tăm, nghèo khổ của Tràng, làm ngời sáng lên niềm tin vào cuộc sống. Viết về sự đổi thay trong tâm tính của Thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây. Chính vì thế, cả hai ý kiến nêu trên ta thấy đều đúng, xác đáng. Thị nghèo khổ, cùng đường, liều lĩnh nhưng đáng thương hơn là đáng giận bởi đằng sau cái cùng đường liều lĩnh ấy là phẩm chất ham sống, giàu lòng tự trọng và khát vọng vượt lên thảm cảnh nạn đói để được sống cho một ánh sáng ngày mai.
Tóm lại, người vợ nhặt là một sáng tạo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người ta dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai và không bao giờ mất đi niềm tin vào sự sống. Thông qua hình ảnh nhân vật Thị nhà văn như phanh phui, lột trần bộ mặt thối nát của bọn thực dân và bọn cường quyền lộng hành, chính vì tội ác của chúng mà làm thân phận con người chỉ đáng vài bát bánh đúc, chính chúng là thủ phạm hủy hoại tương lai của biết bao con người. Chính Thị là một hình tượng mà nhà văn Kim Lân đã dựng lên để nói với nhân dân và bè lũ độc ác kia rằng người phụ nữ Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung không bao giờ từ bỏ sự sống ở bất cứ hoàn cảnh nào.
Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt – mẫu 3
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó. Đó là nhân vật người vợ.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết, người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chơi, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí bốc lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Tác phẩm như đã tái hiện lên khung cảnh lúc đó, ở một xóm nghèo nhỏ, người dân sống cực khổ quanh năm , lại thêm cảnh chèn ép bắt đóng thuế nhọc nhằn sao kể xiết.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những con người nghèo khổ trong xã hội Việt Nam. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút cho diễn biến xoay quanh nhân vật người vợ trong tác phẩm. Từ “nhặt” mang lại cho đọc giả cái cảm giác rẻ rúng, bèo bọt của phận làm nữ nhi, gợi lên niềm xót thương cho số phận con người. “ Vợ nhặt” nghe quá đỗi chân thực và vẽ lên hình ảnh người phụ nữ có một cuộc sống khó khăn, chẳng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn khi ngay cả một đám cưới nhỏ cũng không có hay chính xác hơn là một mâm cơm ngon cũng chỉ như giấc mộng hão huyền ngày cô về làm dâu nhà người ta.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mồng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Bởi cuộc sống quá khó khăn, đói kém con người ta trở nên càng mệt mỏi , chán nản, từ già trẻ, gái trai đều đem sự khắc khổ của đời mà ghim vào những nếp nhăn , nếp chân chim, và làn da rám nắng , thân thể gầy gò quắt queo. . Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”. Và bỗng một hôm hắn dắt về một người đàn bà lạ hoắc không một ai trong xóm nhỏ quen biết. Dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “ Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén,e thẹn” . Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.Tưởng chừng Thị là một người phụ nữ táo bạo vô duyên nhưng thực chất cũng vô cùng e lệ và suy nghĩ như một người phụ nữ. Cắp thúng con theo Tràng về, nàng dâu mới cũng bẽn lẽn theo sau, khi bị trêu chọc cũng e thẹn như bao nàng dâu mới khác. Về đến nhà, khi được Tràng mời ngồi Thị chỉ ngồi mớm ở giường, tay vân vê và bộ mặt lộ rõ vẽ đầy lo lắng. Chắc có lẽ Thị nghĩ về cuộc sống mới của hai vợ chồng, rồi cuộc đời của Thị sẽ đi đến đâu.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tính thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…”. Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…”. Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết. Thế nhưng vì thương con, lại một chữ “thương” mà bỏ qua tất cả để người mẹ chấp nhận cuộc sống vất vả, khổ cực có thêm một miệng ăn và bà cũng thương cả hai con người trẻ tuổi trước mặt mình: “Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là con dâu trong nhà rồi”. Có hai tình huống xảy ra mà khiến độc giả có lẽ không cầm được nước mắt, đó là khi nhà ăn bữa cơm đầu tiên đón nhận thành viên mới và lúc bà mẹ già bưng nồi ‘‘chè khoán’’ nghi ngút khói ra đặt cạnh mâm cơm. Trong cái thời nạn đói, người chết như rạ ấy thì một bữa cơm đúng nghĩa quả thực rất khó để có trong một gia đình như của Tráng. Bữa cơm bao gồm “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà ăn đều rất ngon lành’’. Thật sự là nghèo khó đến bần cùng cạn kiệt. Người vợ vẫn ăn mà không một câu than phiền. Xuất thân của Thị cũng có hơn gì ai. Thị cũng nghèo khó, gầy gò và vì tình thương mà đến làm vợ, làm con dâu nhà người ta. Thị cũng là một người vô cùng đảm đang và tháo vát. Khi về nhà Tràng, buổi sáng sớm tinh mơ, Thị đã dậy sớm để cùng bà dọn dẹp và sửa sang lại căn nhà vườn tược. Dường như Thị muốn vun vén cuộc sống của gia đình và bắt đầu một cuộc sống mới. Thị cũng rất vui tính và hòa nhập nhanh với cuộc sống mới. Trong bữa ăn, Thị kể nhiều câu chuyện, có cả câu chuyện cướp kho thóc Nhật, từ đó dấy lên bao niềm khát khao hi vọng tự do của những người dân nghèo khó. Một bữa cơm đón dâu nghèo nàn đến đáng thương. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà Tứ có thể mang lại cho con. Và có lẽ trong thâm tâm người ‘‘vợ nhặt’’ cảm thấy xúc động thêm thương xót cho những con người trong gia đình này. Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói do khát mà ra.
Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện.ong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt – mẫu 4
Nhân vật “Thị” là một thành công đặc sắc của Kim Lân trong nghệ thuật phân tích tâm trạng người phụ nữ cùng khổ trong nạn đói năm Ất Dậu, 1945.
Nhân vật vợ Tràng được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, có vai trò tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.
Trận đói đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù lên như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi gây của xác người. Thị cũng chạy đói “ngồi vêu ra” cùng mấy chị con gái nơi cửa nhà kho. Không họ tên, không rõ quê quán, tuổi tác. Chắc cha mẹ, anh chị em đã chết đói cả rồi? Cái đói đã cướp đi của tất cả. Lần đầu nghe Tràng hò “muốn ăn cơm trắng mấy giò…”, Thị bị mấy cô bạn “đẩy vai”. Thị “cười như nắc nẻ” cong cớn nói với Tràng: “Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?”. Thị “liếc mắt cười tít” làm cho anh cu Tràng “thích lắm”. Lần sau, Thị gặp lại Tràng thì đã thay đổi hẳn. Áo quần rách tả tơi như tổ đỉa. Thị gầy sọp đi. Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Dưới chân Thị là vực thẳm, là chết đói! Thị “sưng sỉa” trách Tràng là “điêu”, “leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt!”. Thấy Tràng vỗ vào cái túi khoe “rích bố cu”, hai con mắt “trũng hoáy” của Thị tức thì sáng lên. Thị “đon đả” với anh cu Tràng: “Ăn thật nhá!”. Thị đã ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc rồi thở, khen: “Hà, ngon!”. Cũng biết đùa, biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, nói với Tràng rất lẳng lơ: “Về chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!”. Chỉ một câu nói tầm phào của Tràng “làm đếch gì có vợ…”, thế là Thị theo về ngay, “Thị về thật”. Khi đứng trong cái nhà “vắng teo… rúm ró” của mẹ con Tràng, Thị đảo mắt nhìn xung quanh, thất vọng “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài”.
Từ dáng điệu, cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, Thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ, sỗ sàng. Thị đã nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Chết đói là điều cầm chắc. cần được ăn để sống. Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi. thật đáng thương! Thị có khác gì người ăn mày nọ:
“Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!
Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!”
(Ca dao)
Bản chất của người con gái đói khổ không rõ họ tên này không phải là xấu. Cách kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu, nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động.
Chỉ qua một ngày một đêm, sau khi đã thành vợ của Tràng, thành “nàng dâu mới” của bà cụ Tứ, ta thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm gia đình, một mái ấm tình thương, có chồng con như những người đàn bà may mắn khác. Trước cái nhìn tò mò của bà con xóm chợ, Thị “ngượng nghịu, chân nọ bước dịu cả vào chân kia”. Nghe bọn trẻ con gào lên: “Anh Tràng ơi! Chông vợ hài”, Thị “nhíu đôi mày lại”, rồi đưa tay lên “xóc xóc lại tà áo”. Chưa gặp bà cụ Tứ, Thị rất băn khoăn lo lắng “mặt bần thần”. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông Thị rất đáng thương: “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”.
Nghe bà cụ Tứ nói: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân” Thị “vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Đó là tâm trạng của một người con gái lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, không cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thương!.
Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính “hay đáo để”. Cái “liếc mắt cười tít” lần đầu gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào lưng Tràng với tiếng mắng yêu: “Khỉ gió”. Một lời trách nhẹ chồng: “… chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột”. Một cái củng vào trán Tràng kèm theo câu nói yêu: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Sau bao tháng ngày, chạy đói, sống vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến dần, Thị đã trở thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo lắng, nhưng Thị đã có sự đổi đời. Niềm vui trong tối tân hôn thể hiện cảm động niềm khát khao hạnh phúc của một người phụ nữ trong đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc muộn màng nhưng đáng quý giá biết bao! Ngòi bút hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện bao trân trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự đổi đời của vợ chồng Tràng.
Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp. Dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi quét sân của Thị “kêu sàn sạt trên mặt đất” tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng Thị? Thị “lẳng lặng” đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm thấy vợ mình rất đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có “nàng dâu mới”, Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm nhân lực. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, Thị nói với mẹ chồng và chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa ta cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là người truyền tin cách mạng.
Vai trò nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” là một nhân chứng tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật – Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Nạn đói do chúng gây ra khủng khiếp đã hạ thấp nhân phẩm con người, cướp đi mọi giá trị của con người biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể “nhặt” được!
Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, về làm dâu bà cụ Tứ phải mặc áo quần rách như tổ đỉa, bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám – hình ảnh ấy, tình tiết ấy thật đáng thương. Và đó cũng là nỗi đau, nỗi nhục của nhân dân ta trong cảnh lầm than nô lệ.
Nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dần ta vẫn khao khát được sống ấm no hạnh phúc. Những người nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… Cũng như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.
Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt – mẫu 5
Kim Lân là một trong số ít những nhà văn thành công khi viết về cái nghèo, cái đói để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Khi viết về cái đói, Kim Lân không dừng lại ở việc khơi gợi lòng thương cảm, xót xa mà còn tạo ra một nỗi ghê sợ, ám ảnh về sức mạnh hủy diệt của nó đối với nhân phẩm và thể xác con người. Tuy nhiên, với thông điệp “Hãy tin ở con người”, hầu hết nhân vật của Kim Lân, đến cuối truyện luôn tìm về với bản chất tốt đẹp, đáng quý của mình. Đại diện cho kiểu nhân vật này, chúng ta có thể kể đến người vợ nhặt trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn. Đây là nhân vật bị cái đói xui khiến, sẵn sàng vứt bỏ tự tôn, nhắm mắt đưa chân theo người xa lạ vì một miếng ăn. Nhưng, ở đâu đó trong con người Thị vẫn luôn tồn tại những phẩm chất đáng trân trọng của một người phụ nữ truyền thống: đảm đang, biết vun vén gia đình và cũng đầy tinh tế, ý nhị.
Vợ nhặt là truyện ngắn được sáng tác năm , lấy bối cảnh của nạn đói Ất Dậu 1945. Đây là tai họa vô cùng khủng khiếp trong lịch sử dân tộc ta cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người. Kim Lân đã dựng lên khung cảnh “tối sầm vì đói khát”. Ở đó, “người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”. Còn người sống thì lay lắt, thê thảm bởi họ sống nhưng lại chắc rằng cái chết đang chờ đợi mình ở phía trước. Nạn đói hoành hành dữ dội. Cái đói, cái chết dồn ép con người vào thế chông chênh của kiếp người. Trần gian nối tiếp địa ngục, khoảng cách giữa sự sống và cái chết trở nên mong manh hơn bao giờ hết.
Nhân vật người vợ nhặt hiện lên trong tác phẩm không tên tuổi, không gốc gác, quê quán, không người thân, họ hàng. Kim Lân gọi nhân vật bằng đại từ phiếm chỉ “Thị, ả, người đàn bà” cho thấy thân phận mờ nhạt, đáng thương của nhân vật. “Thị” có thể là bất cứ người đàn bà khốn khổ, nghèo đói nào ngoài kia, họ cũng đang chết dần chết mòn về cả hình hài và nhân phẩm trong cái đói. Chỉ vài câu miêu tả ngắn ngủi, Kim Lân đã cho thấy sự hiện hình của cái đói trên khuôn mặt Thị: “Áo quần tả tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.” Ngoại hình của Thị khiến người ta liên tưởng đến một bóng ma, một xác chết hơn là một con người. Thị là đại diện cho hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ.
Không chỉ là hình dáng bên ngoài, đến cả vẻ dịu dàng, nữ tính thiên bẩm của người phụ nữ ở Thị cũng bị cái đói bóp méo đến thảm hại. Thị đanh đá, táo bạo đến mức trơ trẽn, thậm chí vứt bỏ liêm sỉ.
Lần đầu tiên gặp Tràng, chỉ vì một câu “hò cho đỡ nhọc” của Tràng: “ Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, Thị đã cong cớn bám lấy rồi “vùng đứng dậy” đẩy xe cho Tràng. Lần thứ hai, Thị đến trước mặt Tràng “sưng sỉa” “nhắc chuyện cũ”. Sau đó, Thị lại không ngại ngùng “ngồi sà xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Trong con mắt của chúng ta, Thị sao mà vô duyên, trơ trẽn quá. Thị hành động theo bản năng sinh tồn, cái đói làm mờ nhân phẩm Thị. Thậm chí, đến cả việc lấy chồng, theo một người đàn ông về nhà chung sống cả đời Thị cũng quyết định hoàn toàn theo bản năng. Vin vào câu nói bông đùa của Tràng: “Này nói đùa chứ, có về ở với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà “Thị về thật”. Không cần mai mối, không cần cưới hỏi, không cần mâm cao cỗ đầy, Thị theo không Tràng với hy vọng có miếng ăn.
Tuy nhiên, Thị đáng thương nhiều hơn đáng trách. Vẫn biết Thị tự bán rẻ nhân cách, hạ thấp nhân phẩm của mình, lấy chồng theo cái cách đầy mỉa mai và chua xót, được người ta nhặt về như món đồ rơi. Thế nhưng, tựu chung lại cũng vì cái đói bức bách làm khát vọng sống, bản năng sinh tồn trỗi dậy trong con người Thị. Thị giống như người đang chới với giữa dòng nước lũ, chỉ một cánh tay đưa về phía mình thì dù nó nhỏ bé, yếu đuối cũng mang lại một niềm hi vọng được sống. Việc Thị cố gắng dùng mọi cách nắm lấy bàn tay kia vốn không sai, không đáng xấu hổ. Rất nhiều bậc nam nhi “đội trời đạp đất” giữa sống và chết cũng sẽ lựa chọn như vậy, huống chi Thị chỉ là một người phụ nữ bình thường.
Tuy nhiên, Kim Lân không hề dừng lại việc khắc họa nhân vật người vợ nhặt ở sự trơ trẽn, vô duyên. Như chúng ta đã biết, thông điệp khi viết về cái đói của nhà văn là “hãy tin ở con người”. Chính vì vậy, trong nhân vật người vợ nhặt là cả một sự đối lập giữa bề ngoài và nội tâm, ban đầu và về sau. Nếu ban đầu Thị cong cớn, chỏng lỏn và chao chát thì sau khi theo Tràng về nhà, Thị trở lại là người phụ nữ với nét tâm hồn đáng quý, đáng yêu.
Thị cũng biết xấu hổ, ngượng ngùng như bao cô gái lần đầu về nhà chồng.Trên đường về nhà cùng Tràng, khi biết mọi người xung quanh đang nhìn mình, Thị “ngượng nghịu chân nọ bước víu cả vào chân kia”. Đằng sau vẻ ngoài rách rưới, xấu xí, Thị cũng có lòng tự trọng. Thị hiểu vì sao người ta nhìn mình và xì xào bàn tán. Giữa cái đận đói khát, khi tình yêu là thứ xa xỉ, họ lại dắt díu nhau về để rồi “biết có qua nổi cái thì này không” . Khi về đến nhà, Thị chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Đứng trước mặt mẹ chồng, Thị chỉ dám “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” ngay cả khi nghe bà cụ Tứ bảo ngồi xuống, “Thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Và người đọc có lẽ đã phải ồ lên đầy ngạc nhiên trước hành động “củng tay vào trán” Tràng và mắng yêu: “chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Thị giường như đã biến thành con người khác hẳn, giống như thiếu nữ e lệ mới về nhà chồng mà không phải người đàn bà chao chát, đanh đá, chua ngoa ban đầu nữa.
Trở thành vợ Tràng, người đàn bà đã làm tốt thiên chức của người phụ nữ, Thị đảm đang, khéo léo, biết thu vén gia đình, “là người đàn bà hiền hậu đúng mực”. Thị như một cơn gió mát lành thổi vào cuộc sống u ám của mẹ con Tràng. Dưới bàn tay người phụ nữ, mọi thứ được sắp xếp ngăn nắp, gọn gàng. “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng.Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Chỉ là những thay đổi hết sức nhỏ nhặt nhưng dường như Thị đã mang đến cả một thế giới khác cho mẹ con Tràng. Đối với Tràng, hắn cảm thấy “một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Còn bà cụ Tứ thì “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ở cuối truyện, chính người vợ nhặt đã dấy lên trong lòng Tràng biết bao dự định, hi vọng thay đổi cuộc sống , Thị nói: “Ở trên mạng Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Chính câu nói của Thị đã gợi lên trong đầu Tràng “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Có thể không lâu nữa, hắn cũng sẽ đứng trong hàng ngũ những người đi phá kho thóc Nhật, thay đổi số phận của mình và gia đình. Vậy mới thấy hơi ấm tình người có ý nghĩa biết nhường nào. Mẹ con Tràng sẵn sàng cưu mang người khác trong cảnh đói khát và có lẽ họ đã nhận lại nhiều hơn thế. Chính người đàn bà đói khát lại làm cho cuộc sống của họ hồi sinh một lần nữa.
Không chỉ làm tròn trách nhiệm của một người vợ, một người con dâu trong gia đình, nhân vật người vợ nhặt còn là một người phụ nữ cam chịu, hi sinh và có lòng cảm thông sắc. Theo một người đàn ông xa lạ về nhà, Thị hi vọng có nơi bấu víu để vượt qua cơn đói khát. Thế nhưng, khi về tới nhà Tràng, nhìn gia cảnh của mẹ con hắn, Thị không khỏi cất tiếng thở dài thất vọng. Điều đó khiến Thị không khỏi thất thần, buồn bã trước hoàn cảnh mới, trước số phận trớ trêu của mình. Mặc dù vậy, Thị đã không bỏ đi, tình nghĩa, sự cam chịu níu giữ chân Thị ở lại cùng với mẹ con Tràng hướng về tương lai tốt đẹp hơn. Bữa cơm đầu tiên thảm đạm với niêu cháo mà mỗi người có hai lưng bát đã hết nhẵn. Khi mẹ chồng múc cho Thị bát cháo cám, “hai con mắt tối sầm” nhưng “Thị vẫn điềm nhiên và vào miệng”. Thị hòa mình vào cuộc sống gia đình. Bát cháo cám đắng chát trong cổ khiến Thị không khỏi tủi hờn nhưng Thị không hề tỏ ra thất vọng hay chán nản bởi Thị hiểu hoàn cảnh của gia đình chồng. Có lẽ, hơn ai hết, Thị hiểu rằng, chính hai con người nghèo khổ kia đã không ngại đói nghèo mà cưu mang, che chở mình, đối với Thị, họ là ân nhân, là người Thị mang ơn. Và cũng có thể, nếu không có Tràng và bà cụ Tứ, ngay cả cháo cám Thị cũng không có để ăn, phải chết đói nơi đầu đường, xó chợ.
Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân khắc họa chỉ bằng vài câu miêu tả ngắn ngủi nhưng đây có thể coi là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thị không chỉ là nhân vật mang thông điệp đầy tính nhân văn của nhà văn, khẳng định niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của con người mà còn là nhân tố tạo nên bước chuyển mình độc đáo của tác phẩm. Không có Thị, hai mẹ con Tràng sẽ mãi mãi bị vùi lấp trong cuộc sống tăm tối, lặng lẽ và câu chuyện có lẽ sẽ kết thúc theo một hướng nào đó bi đát, tồi tệ hơn, đồng thời cũng không thể gây cho người đọc sự thương cảm, xót xa sâu sắc đến thế.
Thông qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân đã gửi gắm đến độc giả rất nhiều chiêm nghiệm sâu sắc. Đó có thể là lời nhắn nhủ: Đôi khi những thứ ta tận mắt thấy lại không hẳn là sự thật, hãy khoan phán xét con người qua hình dáng hay hành động nhất thời, chỉ có thời gian mới mang đến câu trả lời hoàn hảo. Nhân vật Thị có thể đanh đá, chua ngoa, trơ trẽn trước sự đe dọa của cái đói nhưng bản chất của Thị là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp, đáng quý mà nếu anh cu Tràng không cho Thị cơ hội, nhưng điều đó sẽ mãi chẳng ai biết tới. Đó cũng có thể là triết lí về sức mạnh của tình người, hãy cứ cho đi và chúng ta sẽ nhận được thứ vô giá hơn gấp bội. Giống như nhân vật Thị khi được mẹ con Tràng cưu mang đã làm cho cuộc sống của họ mới mẻ tươi đẹp hơn, đáng sống hơn. Có thể nói, nhân vật không chỉ đưa chúng ta đến những nhận thức mới mẻ về con người mà còn làm dâng lên trong lòng người đọc niềm thương cảm, chua xót cho thân phận rẻ rúng, đau khổ của người phụ nữ trong đói nghèo và chết chóc.
Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt – mẫu 6
Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Đây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu (1945) của nước ta. Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật người vợ nhặt: nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt. Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói.
Về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh: không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định dành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị. Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn: đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa, sống vất vưởng và chờ đợi may mắn.
Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh. Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, Thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, Thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… Trong đói khát cùng cực, thị gần như đánh mất đi nhân cách, sự tế nhị của con người.
Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng. Tiếng thở dài thất vọng vì hoàn cảnh của Tràng cũng chẳng có gì khá hơn thị. Tràng đau chỉ nghèo mà còn có mẹ già, còn phải lo toan, biết có cưu mang thị nổi hay không, hay có thể sẽ khiến cuộc đời của thị thêm khổ. Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương. Ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự, bởi thế thị quyết định gắn kết với tràng, trở thành một phần trong gia đình, bất chấp ngày mai ra sao.
Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người. Nói điều này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng. Thị ngượng ngùng đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn, ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia”… . Lúc này, trông thị thật tội nghiệp, cảnh cô dâu mới theo chồng về nhà: một cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những khuôn mặt hốc hác u tối của những người trong xóm và âm thanh của tiếng quạ, tiếng khóc hờ người chết tang thương… Hành trang bước đến với hạnh phúc của thị là cả cuộc đời đen tối và nỗi lo sợ không thể nói nên lời.
Thế nhưng, có cái gì đó thật mới mẻ đã làm thay đổi người đàn bà ấy. Sau một ngày làm vợ, chị dậy thật sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình chứ không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.. Thị hiện rõ là một người vợ hiền, một cô dâu thảo. Cuộc sống có cái gì đó khởi sắc mà không ai có thể lí giải được.
Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, bà cụ Tứ dành hết tình cảm cho con dâu mới. Chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.
Qua hình tượng người vợ nhặt, nhà văn đã mạnh mẽ lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp; đồng thời bày tỏ thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ; thái độ trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo; trong lao khổ họ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.
Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết….
Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt – mẫu 7
Ai đó từng nói rằng “ Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả sau lưng bạn”. Bởi nói như nhà văn Nguyễn Khải “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc bắt nguồn từ những gian khổ hy sinh. Ở đời không có con đường cùng chỉ có những ranh giới điều cốt yếu là phải có đủ sức mạnh để bước qua ranh giới đó”. Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân ta càng hiểu sâu sắc và thấm thía hơn chân lý đó. Ta không khỏi xót xa, ngậm ngùi thương cho hoàn cảnh éo le, mừng vui cho niềm tin của con người vào tương lai mới mà còn rưng rức trước tình cảm yêu thương của hơi ấm gia đình.Vậy điều đó thể hiện như thế nào qua hình ảnh nhân vật Thị?
Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân được viết trên nền cái đói của năm 1945. Chân dung nhân vật Tràng được Kim Lân miêu tả có ngoại hình thô kệch, xấu xí với công việc làm thuê ngật ngưỡng bước ra trong đói nghèo ấy. Thị, cô gái kém duyên đang vật lộn với cái đói. Hai người họ gặp nhau vỏn vẹn có hai lần rồi thành đôi chỉ bằng bát bánh đúc với vài câu bông đùa. Tràng dẫn Thị về trong cái nắng chiều chạng vạng trước sự bất ngờ của tất cả người dân xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ- mẹ Tràng nhìn nàng dâu mới mà lo cho con liệu có đùm bọc nhau trong cảnh nghèo, lại mừng vui hạnh phúc vì khó khăn hay đói khổ cũng không ngăn đôi lứa nên duyên. Họ cùng nhau vun vén cửa nhà, san sẻ từng bữa ăn. Trong hạnh phúc ấy, câu chuyện khép lại với hình ảnh nhân dân phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong óc Tràng.
Thị là nhân vật mang đầy đủ những nét tiêu biểu của người lao động nghèo trong nạn đói khủng khiếp. Dưới ngòi bút của Kim Lân, chân dung Thị hiện lên như một con ma đói, áo quần luộm thuộm, gương mặt lấm lem với “cái ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, không có nổi cái tên mà vỏn vẹn chữ “Thị”. Cô gái đói đến độ phải nhặt đồ rơi vãi, nghe ba câu hò mà vội chạy đến đẩy xe bò. Thị gặp Tràng nhưng không ăn trầu mà ăn bánh đúc rồi quẹt đũa ngang miệng “chà ngon”. Ta chỉ thấy chân dung Thị chao chát, chỏng lỏn. Vậy nhưng qua ngòi bút đầy tài năng của tác giả, người vợ anh Tràng hiện lên có cong cớn, rất cong cớn nhưng không nanh nọc và tính cách ấy phải chăng do dốt nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt nhiên không sinh ra từ cái ác, cái xấu. Nhân vật Thị hiện lên chua xót hơn khi cuộc hôn nhân cả đời người cũng chỉ bắt đầu bằng vài ba câu tầm phào của Tràng mà khiến người đàn bà quên hết sĩ diện, nết na, đức hạnh để xà xuống ăn hết bát bánh đúc, theo Tràng về làm vợ mà không dò hết ngọn ngành nguồn sông. Chính cái đói đã khiến thân phận con người bọt bèo, rẻ mạt đến vậy.
Khi gặp Tràng thì đanh đá, chỏng lỏn nhưng khi về làm dâu, Thị lại là người vợ đảm đang, con dâu hiếu thảo. Thị theo Tràng về như đến một chốn có thể nương tựa trong cái đói đang rình rập. Trên con đường về nhà Tràng, cô Thị đanh đá bỗng trở nên dịu dàng, e dè, ngượng ngập. Đôi mắt tư lự khi bỡ ngỡ đặt chân đến ngôi nhà mới, dáng điệu khép nép ngồi và câu chào lúng túng…tất cả làm cho Thị có cảm giác của một nàng dâu mới. Từ khi làm vợ, Thị đảm đang và dịu dàng hơn cả, cô cùng mẹ sửa sang cửa nhà, dọn dẹp vườn tược và vui vẻ trong bữa ăn loãng thếch, đắng chát. Thị kể về câu chuyện những người cướp kho thóc Nhật với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Chính nó làm lóe lên ánh sáng tia hy vọng về tương lai mới, mở ra con đường đấu tranh đi đến Cách mạng. Rõ ràng, Thị dần dần nhận được đủ đầy cảm xúc từ chữ “tình”, có ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình. Quả đúng, dù trong túng đói tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo bởi nó khiến con người được sống là chính mình, được nên người.
Truyện ngắn Vợ nhặt là lời kết tội đanh thép đối với thực dân Pháp và phát-xít Nhật cùng bọn phong kiến tay sai đã đẩy con người vào thảm cảnh chết đói khủng khiếp, mạng người như cỏ rác. Không chỉ vậy, Vợ nhặt còn mang ý nghĩa nhân bản sâu xa rằng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết, con người vẫn yêu thương, trân trọng, đùm bọc lẫn nhau, vẫn khát khao hạnh phúc, muốn sống như một con người, sống nên người.
Nam Cao từng nói “Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm”, nó quả đúng với nhân vật Thị trong Vợ nhặt. Tôi nghĩ, đó là cái lườm yêu của cô Thị không chỉ thật xấu mà còn thật rách và còn thật đói. Nhưng có lẽ khi đong đưa con mắt, Tràng và Thị, họ đã quên đi cuộc sống ở cõi trần đang mấp mé bờ vực cõi âm, cõi âm như hòa với cõi trần, để chỉ còn nhớ đến sự thương yêu. Thật trân trọng và cảm phục biết bao trước những giản dị của hạnh phúc của đời thường!
Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt – mẫu 8
Trong nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn những năm trước cách mạng và những năm đầu sau cách mạng tháng tám, Kim Lân là một trong những cái tên nổi bật nhất khi viết về đề tài người nông dân trong xã hội cũ. Dù có số lượng tác phẩm hạn chế, thế nhưng hầu như tác phẩm nào của Kim Lân cũng hay và có nhiều giá trị, là cơ sở xếp nhà văn vào một trong 9 tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Điểm sáng và đáng lưu ý nhất trong các tác phẩm của Kim Lân ấy là giọng văn nhẹ nhàng, tình cảm, các tác phẩm của ông chủ yếu tập trung làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người, hướng đến một lối thoát nhân văn cho những kiếp người lầm than khốn khổ, chứ không tập trung tái hiện hiện thực khắc nghiệt đau thương của xã hội cũ. Vợ nhặt là một trong số những tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc nhất của Kim Lân, đặt trong bối cảnh đất nước những ngày đau thương nhất – nạn đói năm 1945. Nhân vật vợ Tràng là một trong những kiếp người khốn khổ tột cùng, cái đói đã khiến thị tàn tạ, xơ xác, để nên xấu xí trong mắt người đời, thế nhưng khi tìm hiểu sâu về nhân vật này ta mới phát hiện ra ở thị cũng có những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý.
Nhân vật thị là một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình, và cũng chẳng ai biết thị từ đâu đến, cả cuộc đời trước khi gặp Tràng của thị dường như chẳng có gì để nhắc người ta nhớ đến. Cái hoàn cảnh khốn khổ của thị, chính là hoàn cảnh chung của rất nhiều người nông dân trong nạn đói năm 1945, tại cái thời điểm mà kiếp người rẻ rúng như cọng rơm cọng rác nhặt ngoài đường. Không chỉ nghèo khó, không lai lịch, tên tuổi mà trên người thị còn mang đủ những bất hạnh của một người đàn bà, thị không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại, người ta bắt gặp thị trong bộ ““áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”. Bấy nhiêu những nét vẽ ấy cũng đủ để thấy bản thân thị cũng đang bước dần những bước cuối đến cái nghĩa địa của cuộc đời như nhiều số phận khốn khổ khác trong nạn đói kinh hoàng.
Đã không có một ngoại hình hấp dẫn, nhưng cách nói năng, hành động của thị cũng khiến người ta mang nhiều phản cảm. Khi nghe anh Tràng hò mấy câu đùa cho khuây khỏa, nghe thấy có cái ăn thị đã cong cớn, mỉa mai, rồi cũng chẳng biết ngại ngần thị sấn tới tranh đẩy xe với Tràng, “liếc mắt, cười tít”. Tuy nhiên sau bữa đẩy xe phụ, mà không được cái ăn, khi gặp lại Tràng thị đã sưng sỉa, chỉ thẳng vào mặt Tràng mà mắng “Điêu, người thế mà điêu”. Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi hẳn thái độ. Và rồi thị cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. Quả thực trước giờ chưa từng thấy người đàn bà nào trước mặt một người đàn ông lạ mới gặp hai lần mà có thể thoải mái, thậm chí đến mức vô duyên, trơ trẽn, hành động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn như thị.
Nạn đói nó khiến cho tâm hồn và nhân cách con người trở nên rẻ rúng, thiểu não quá. Nhưng đến khi xét kỹ lại, nhìn lại những hành động của nhân vật thị một cách nhân văn hơn, ta mới nhận ra rằng, thực tế khi đứng trước cái chết, cái đói, và đứng trước viễn cảnh hàng triệu người đang chết như ngả rạ trước mặt khó ai có thể bình tĩnh và cư xử một cách bình thường nổi. Ai mà không sợ chết, thị cũng sợ chết, và ngay lúc này đây khi gặp Tràng khi phải đối diện với lưỡi hái của tử thần mà lại bắt được cọng rơm cứu mạng, thì những khao khát được sống sót của thị bùng cháy. Thị bất chấp tất cả để có được miếng ăn, vứt bỏ hết liêm sỉ, nhân cách chỉ vì được sống, quyết không buông bỏ cuộc sống dễ dàng. Không chỉ có khao khát sống mãnh liệt mà bản thân thị còn có những khao khát được hạnh phúc, được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như này.
Thành thử ra chỉ với một câu nói nửa đùa nửa thật “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, mà thị đã không ngần ngại nhận lời, trở thành người vợ mặt dày, mày dạn theo không Tràng. Đối với thị bây giờ cỗ bàn, đám rước đám hỏi chẳng còn quan trọng, miễn sao là có được một chỗ trú chân, một gia đình và qua được cái đói thì mọi chuyện đều có thể cho qua hết. Thế là thị đã nên vợ nên chồng với Tràng bằng những niềm hy vọng mới mẻ, thị mong rằng cái người trước mắt đã có thể sảng khoái mà đãi mình 4 bát bánh đúc, thì hẳn sau chung sống hắn cũng sẽ tử tế với mình, được nhiêu đó cũng đủ mãn nguyện rồi. Như vậy bên cạnh ý nghĩa nhân văn trong sự kiện thị theo không Tràng, thì Kim Lân cũng phản ánh một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã xuống đến mức âm, thậm chí còn không bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi những người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.
Những tưởng thị trời sinh đã đanh đá, chỏng lỏn và sưng sỉa nhưng khi nhìn thấy dáng vẻ của thị sau khi làm vợ Tràng ta mới nhận ra rằng, sự vô duyên, ghê gớm của thị chỉ là một cái vỏ bọc bảo vệ thị trong nạn đói, thực tế rằng thị cũng là một người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp được giấu kín sau dáng vẻ tàn tạ, khốn khổ kia. Trên đường trở về nhà với Tràng, thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà chồng. Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không, thành thử ra thị càng trở nên bối rối “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả chân kia”, nom đến thương vô cùng. Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, không có bàn tay người đàn bà săn sóc, không khỏi khiến thị thất vọng, buồn lòng, bởi có lẽ thị đã hy vọng về một ngôi hà tươm tất, đủ đầy hơn, để cuộc đời thị từ đây bớt khổ sở.
Nhưng cảnh trước mắt kém quá xa so với những gì thị tưởng tượng, tuy nhiên thị không vì thất vọng mà phàn nàn với Tràng, thị bỗng trở thành một người đàn bà nhẫn nhịn và tế nhị “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, rồi nén một tiếng thở dài”. Thị đã cất hết cái thất vọng, buồn bã của mình vào lòng, không để Tràng biết, quyết tâm cùng người chồng mới cưới xây dựng gia đình, phấn đấu vượt qua cái nghèo cái khó. Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, khi tưởng cụ không nghe thấy thị đã chào thêm lần nữa, dáng điệu khép nép, ngại ngùng, thực sự thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
Sau đêm tân hôn, thị lột xác trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,… Không khí gia đình trở nên hòa hợp vui vẻ và có nhiều hy vọng hơn cả. Đặc biệt khi đối diện với nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn bứ nơi cổ họng của bà cụ Tứ, “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng”, không nói năng hay tỏ thái độ gì. Cách cư xử tế nhị ấy của thị, đã bộc lộ một nét tính cách khác của thị ấy là sự thấu hiểu và cảm thông cho người mẹ già thương con, thị hiểu rằng vì nghèo quá không có gì đãi con nhân ngày tân hôn thế nên bà cụ tội nghiệp mới cố kiếm một nồi cháo cám.
Và trong không khí gia đình vui vẻ ấy, thị không muốn phá hỏng nó, khiến cho bà cụ trở nên bối rối. Cuối cùng cảnh thị kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật đã bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà này không cam chịu cuộc đời đói kém, và có lẽ trong một mai thị sẽ cùng chồng là Tràng đi phá kho thóc, theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
Nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là nhân vật đại diện cho hàng triệu kiếp người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Tuy nhiên sống trong cảnh khốn khổ cùng đường nhưng thị vẫn giữ cho mình được những vẻ đẹp tâm hồn quý giá, tiêu biểu nhất ấy là niềm khao khát được sống, khao khát hạnh phúc, niềm hy vọng vào một tương lai mới tốt đẹp hơn. Bộc lộ rõ nét tư tưởng nhân văn, nhân đạo mà tác giả muốn truyền tải trong tác phẩm của mình.
✅ Văn mẫu lớp 12 ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐
Leave a Reply